Thời sự Thần học – Số 3, tháng 8/2009, tr. 166-182
_Fr. Timothy Radcliffe, O.P._
Bài thuyết trình tại Đại hội các Viện phụ, dịp lễ thánh Alselmô, 06.9.2000.
Mân Côi chuyển dịch.
Được mời đến nói chuyện tại Đại hội các Viện phụ này, đối với tôi, quả là một
vinh hạnh to lớn. Tôi xin nói đôi chút về vai trò của các đan viện trong Thiên
niên kỷ mới này. Tôi cảm thấy không xứng hợp lắm để nói về đề tài này và có
lúc đã nhủ mình là giá đừng nhận lời mời thì hay hơn. Nhưng tôi xin cố gắng
làm để tỏ lòng tôn vinh và tri ân thánh Biển Đức và những người sống theo Tu
luật của thánh nhân. Tôi đã được các thầy dòng Biển Đức giáo dục nhiều ít
trong vòng mười năm, ở Worth, rồi ở Downside. Và tôi vẫn giữ kỷ niệm đẹp nhất
trong những năm tháng ấy. Tôi nhớ nhất là tính cách nhân bản của các đan sĩ đã
giúp tôi tin vào một Đấng Thiên Chúa nhân lành và thương xót, trong khi vẫn
giữ được tính cách rất là ăng-lê! Về ơn gọi đi tu, có lẽ tôi mắc nợ ông cậu
tôi là một thầy dòng Biển Đức. Ông cậu tên là Dom John Lane Fox, một con người
rất linh hoạt và rất nhiệt thành với Chúa. Cuối cùng, tôi xin cám ơn Thiên
Chúa vì một thầy dòng Biển Đức tốt lành nữa, bạn của tôi. Đó là Đức hồng y
Basil Hume.
Suốt cuộc hành hương dài là chính cuộc đời của tôi, các đan viện Biển Đức đã
nên như là những ốc đảo giữa sa mạc, nơi tôi có thể nghỉ ngơi bồi dưỡng trước
khi lại tiếp tục con đường. Tôi đã được tĩnh tâm chịu chức phó tế tại đan viện
Bec-Hellouin ở Normandie. Tôi đã được nghỉ hè ở đan viện La Pierre-qui-Vire và
Einsiedeln. Tôi đã được cử hành lễ phục sinh tại đan viện Pannonhalma ở
Hungari. Tôi đã thăm Subiaco, Mont-Cassin, Mont-Olivet và cả trăm đan viện
khác nữa.
Trong tất cả các đan viện này, tôi đều thấy nhiều đoàn
du khách tới. Tại sao họ lại tới đó làm gì? Có lẽ một số là du khách, họ đến ở
đó một buổi chiều, có thể là mong được nhìn thấy một đan sĩ, tựa như người ta
đi xem khỉ ở sở thú. Có thể người ta cũng mong thấy những tấm biển nhỏ: “Cấm
không cho các đan sĩ ăn”. Một số khác muốn xem nhà cửa hoặc phụng vụ cử hành
đẹp như thế nào. Nhiều người đến để gặp gỡ Thiên Chúa. Chúng ta đang nói đến
“tục hoá”, nhưng chúng ta lại đang sống vào một thời đại mang dấu ấn sâu đậm
của việc tìm gặp Thiên Chúa. Có cả một cơn khát mong điều siêu việt. Người ta
hy vọng tìm được điều ấy trong các tôn giáo Đông phương, các giáo phái của New
Age, cái ngoại lai và cái bí truyền. Thường có một sự hồ nghi nào đó đối với
Hội Thánh và bất kỳ tôn giáo nào có tổ chức, có thể trừ ra các đan viện. Tư
tưởng đang có là trong các đan viện người ta có thể thoáng thấy mầu nhiệm
Thiên Chúa và khám phá ra một dấu vết nào đó của điều siêu việt.
Thật vậy, vai trò của các đan viện là đón tiếp các lữ khách qua
đường. Tu luật nói rằng người xa lạ phải được tiếp đón như là tiếp đón Đức
Kitô. Họ phải được chào đón với lòng trọng kính. Phải rửa chân cho họ và cho
họ ăn. Điều đó vẫn luôn là kinh nghiệm của tôi. Tôi nhớ lần thăm
Saint-Ottilien hồi cha Viktor Dammertz còn là viện phụ. Bấy giờ tôi là một anh
sinh viên Đa Minh người Anh, nghèo, nhếch nhác, quen xài xe buýt. Ấy thế mà
tôi thấy mình được đón tiếp, được rửa chân, được dọn dẹp nhờ các thầy dòng
Biển Đức không chê vào đâu được. Thậm chí các thầy còn hớt tóc cho tôi nữa.
Thế là lúc lên đường, tôi hầu như ngon lành hết. Nhưng tôi cũng chỉ ngon lành
như thế trong một thời gian ngắn.
Tại sao người ta lại bị lôi cuốn
đến các đan viện như thế nhỉ? Tôi xin chia sẻ với anh em đôi ba suy nghĩ về
điểm này. Có thể anh em sẽ nói rằng các ý tưởng của tôi là hoàn toàn rồ dại và
những ý tưởng ấy cho thấy rõ là một anh Đa Minh thì chẳng thể hiểu gì về đời
sống Biển Đức cả. Nếu quả thật lại như thế thì xin anh em tha lỗi cho tôi! Tôi
xin giải thích thế này: các đan viện của anh em bộc lộ cho thấy Thiên Chúa,
không phải vì những gì anh em làm hoặc những gì anh em nói. Nhưng có thể vì
đời sống đan tu có một khoảng không ở trung tâm, một chỗ trống trong đó Thiên
Chúa có thể tỏ mình ra. Tôi cứ thích gợi lên cho thấy là Tu luật của thánh
Biển Đức đã khéo thu xếp để trong cuộc đời của anh em có một thứ trung tâm
trống rỗng, trong đó Thiên Chúa có thể sống và được nhận biết.
Vinh quang của Thiên Chúa luôn luôn biểu lộ trong một khoảng không
gian trống rỗng. Khi những người Israen ra khỏi hoang địa, Thiên Chúa đồng
hành với họ. Người ngự trong khoảng không gian giữa các cánh của các Kêrubim,
bên trên ngai thương xót. Ngai vinh quang bấy giờ là cái trống rỗng này. Đó
chỉ là một khoảng không gian bé nhỏ rộng tựa bàn tay. Thiên Chúa không cần
nhiều chỗ để tỏ bày vinh quang của Người. Xa hơn đây một chút, ít nhất là hai
trăm mét, trên đồi Aventino, có vương cung thánh đường Santa Sabina, trên cửa
có bức hoạ thứ nhất nổi tiếng, vẽ về thánh giá. Ta thấy một cái ngai vinh
quang, cũng là một khoảng trống, một sự thiếu vắng, bởi vì một người chết đang
kêu lên Thiên Chúa, Đấng ra như bỏ rơi mình. Ngai vinh quang cuối cùng là một
ngôi mộ trống trong đó không còn thi thể nào nữa.
Hy vọng của tôi
là các đan viện Biển Đức tiếp tục là những nơi ở đó vinh quang của Thiên Chúa
chiếu toả, những ngai dành cho mầu nhiệm Thiên Chúa. Và sở dĩ như thế chính là
do cái anh em không phải làm và cái anh em không làm. Những năm sau này, các
nhà thiên văn tìm ra những hành tinh mới trong bầu trời. Cho tới hồi rất gần
đây, họ chẳng bao giờ trực tiếp thấy một hành tinh nào khác. Nhưng họ có thể
chỉ ra chúng nhờ một sự rung động trong quĩ đạo của ngôi sao. Có thể cũng như
thế đối với những người sống theo Tu luật của thánh Biển Đức, anh em chỉ là
những hành tinh bày tỏ cho thấy ngôi sao không thể thấy là trung tâm của đan
viện. Quĩ đạo có thể đo được cuộc đời anh em chỉ hướng về mầu nhiệm mà chúng
ta không thể thấy trực tiếp được. “Quả thật, Ngài là một vị Thiên Chúa ẩn
mình, Thiên Chúa của Israen” (Is 45,13).
Như thế, tôi xin nói rằng
trung tâm không thể nhìn thấy của cuộc đời anh em được biểu lộ trong cách anh
em sống. Vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ trong một sự trống rỗng, một
khoảng không trống rỗng trong cuộc đời của anh em. Tôi sẽ nói đến ba khía cạnh
của đời sống đan viện mở ra khoảng trống này và cống hiến một không gian cho
Thiên Chúa: trước tiên, cuộc đời anh em không có một lý do nào riêng biệt cả.
Thứ hai, cũng qua sự kiện đó, cuộc đời anh em chẳng đưa tới đâu hết. Và sau
cùng, cuộc đời anh em là những cuộc đời của sự khiêm nhường. Mỗi một trong các
khía cạnh này của đời sống đan tu mở ra một không gian cho Thiên Chúa. Và tôi
xin chứng minh rằng trong mỗi trường hợp, chính việc cử hành phụng vụ đem lại
ý nghĩa cho cái trống rỗng này. Chính việc hát Kinh phụng vụ nhiều lần trong
ngày biểu lộ cho thấy rằng cái trống rỗng này được vinh quang của Thiên Chúa
lấp đầy.
I. CÓ MẶT Ở ĐẤY
Một điều hiển nhiên nhất đối với anh em, các đan sĩ, là anh em chẳng làm
gì đặc biệt cả. Anh em có lao động cày cuốc ở ngoài đồng, nhưng anh em lại chẳng
phải là những người làm nghề nông. Anh em có dạy học, nhưng anh em lại không
phải là giáo sư. Có thể anh em chịu trách nhiệm điều hành một bệnh viện hoặc một
sứ vụ truyền giáo, nhưng anh em tiên quyết lại không phải là những bác sĩ hay là
những nhà truyền giáo. Anh em là những đan sĩ, sống theo Tu luật thánh Biển Đức.
Anh em không hề làm một điều gì đặc biệt cả. Chung chung, các đan sĩ vẫn là
những người rất hoạt động, nhưng hoạt động lại chẳng phải là mục đích cuộc đời
của các đan sĩ. Đức hồng y Hume từng viết:
“Chúng tôi không cho mình là những người có một sứ mạng riêng và một chức
năng đặc biệt trong Hội Thánh, chúng tôi không có tham vọng thay đổi dòng
lịch sử. Chúng tôi có mặt ở đấy, cũng hơi giống như thể tình cờ người ta gặp
thấy. Thế thôi! Và chúng tôi vẫn cảm thấy hạnh phúc khi chúng tôi chỉ là có
mặt ở đó mà thôi.”[2]
Chính việc thiếu vắng đối tượng rõ rệt như thế biểu lộ cho thấy Thiên Chúa. Đó
là là lý do hiện hữu, âm thầm kín đáo, của cuộc đời anh em. Thiên Chúa tỏ mình
ra là trung tâm bất khả thị của cuộc đời chúng ta, khi chúng ta không cố tìm
cho ra những lời giải thích để cho người ta biết chúng ta là gì. Cốt tủy của
cuộc đời Kitô hữu vẫn chỉ là ở với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói với các môn
đệ: “Anh em hãy ở lại trong lòng mến của Thầy” (Ga 15,10). Các đan sĩ được mời
gọi ở lại trong lòng mến của Người.
Thế giới chúng ta đang sống ngày nay như là một cái chợ, ở đó ai cũng
tìm cách làm cho mình được nổi bật lên, được chú ý tới, bằng cách ra sức
thuyết phục những người khác để họ thấy rằng cái mình đang bán là cần thiết để
sống sung sướng hạnh phúc. Người ta không ngừng nhắc đi nhắc lại cái mà chúng
ta cần để được hạnh phúc sung sướng: một cái lò hấp, một cái máy vi tính, đi
du lịch chỗ này chỗ kia, một cục xà-bông đời mới. Và đấy quả là một cám dỗ:
cho tôn giáo cũng nhảy vào thị trường tranh đua với những người khác. Các bạn
cần có tôn giáo để được hạnh phúc, để thành đạt hoặc thậm chí để có thể giàu
có nữa. Các giáo phái sinh sôi nảy nở ở Châu Mỹ la-tinh bởi vì các giáo phái
ấy hứa hẹn nhiều nguồn lợi. Và rồi Kitô giáo cũng tới điểm hẹn, tự giới thiệu
là hoàn toàn giá trị và rất hữu ích. Tuần này, người ta đề nghị tập yoga, tuần
tới thì hương liệu chẩn trị. Liệu ta có thể khuyên một ai đó thử một cái xem
Kitô giáo là gì không? Tôi nhớ tới cái khăn trong một quán ăn ở Oxford. Ở góc
có những chữ rất nhỏ thế này: “Nếu bạn đã có công đọc những hàng chữ li ti
này, tức thị bạn đang tìm một cái gì đó. Thế thì tại sao không thử một cái xem
đạo công giáo là gì ?”
Chúng ta cần những người Kitô hữu ở những
nơi chốn công cộng, hoà mình với những tiếng kêu réo của những đám đông đang
chen lấn ở các chợ, cố để lôi kéo chú ý. Đó là chỗ của các anh em Đa minh và
các anh em Phan sinh chẳng hạn. Nhưng các đan viện thì lại đưa vào một chân lý
nền tảng. Nói cho cùng, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa không phải vì điều đó có
lợi cho chúng ta, nhưng vì chúng ta tìm thấy ở nơi Người sự biểu lộ tối cao
của tất cả những gì có giá, vì Người là ngôi sao sáng của cuộc đời chúng ta.
Tôi hay nghĩ rằng đó là bí mật giải thích tại sao Đức hồng y Hume lại có một
thế giá đặc biệt. Đức hồng y không cố làm sao để tiếp thị tôn giáo hay để
chứng minh rằng Kitô giáo là một thành tố bí mật trong những thành tố làm nên
một cuộc đời thành đạt. Người chỉ là một đan sĩ vốn quen đọc kinh. Suy nghĩ
cho đến nơi đến chốn thì người ta thấy rằng một vị thần mà phải chứng minh sự
có ích của thần đối với tôi thì không đáng bỏ công ra để tôn thờ. Một vị thần
mà phải chứng minh rằng mình là có lợi thì cũng có thể là tất cả, trừ là Thiên
Chúa. Cuộc đời của một đan sĩ muốn làm chứng cho thấy rằng ta không thể gán
cho Thiên Chúa bất kỳ một giá trị nào được, bởi vì vạn sự chỉ có giá trị khi
có được tương quan với Thiên Chúa. Đời sống của người đan sĩ chứng nhận điều
đó, vì đời sống ấy chẳng có gì là đặc biệt trừ việc ở lại với Thiên Chúa.
Vai trò của viện phụ có thể chỉ là một con người, cũng rất hiển
nhiên, không làm gì đặc biệt cả. Các đan sĩ khác có thể thấy mình có nghĩa vụ
chu toàn một công việc: giữ kho, coi sóc kẻ liệt, chịu trách nhiệm về vườn
tược, coi nhà in hoặc trường học. Nhưng tôi dám xin nói rằng viện phụ có thể
là người giữ căn tính sâu xa nhất của các đan sĩ xét như là những người không
có cái gì đặc biệt để mà làm. Từng có một người anh em Đa Minh người Anh, Bede
Jarette, một nhà giảng thuyết nổi danh, một nhà văn sung sức, từng là Giám
tỉnh trong nhiều năm. Cha luôn luôn có vẻ chẳng làm gì cả. Người ta kể lại với
tôi rằng, nếu người ta đến thăm cha thì cha không làm gì cả. Nếu người ta hỏi
cha xem cha đang làm gì thì hình như cha có thói quen trả lời rằng: “Cha đang
chờ xem có ai đến thăm cha không”. Cha có nghệ thuật để làm nhiều chuyện trong
khi hình như lại làm rất ít. Đa số trong chúng ta, kể cả tôi nữa, chúng ta lại
làm ngược lại. Chúng ta làm sao để có vẻ luôn luôn cực kỳ bận rộn, thậm chí cả
khi chúng ta thật sự chẳng làm gì!
Du khách tấp nập tới thăm các
đan viện, nhìn thấy các đan sĩ và tham dự giờ Kinh Chiều, có thể khám phá thấy
rằng chính sự trống rỗng như thế lại mặc khải Thiên Chúa như thế nào? Sao họ
lại không nghĩ đơn giản rằng các đan sĩ là những con người lười biếng và không
còn biết những tham vọng, những kỷ lục của cuộc tranh đua tức là cuộc đời là
gì? Họ có thể thoáng thấy rằng Thiên Chúa là trung tâm cuộc đời của anh em như
thế nào? Tôi linh cảm thấy rằng đó chính là khi họ nghe anh em hát. Thế giá
lời mời của anh em nằm trong vẻ đẹp của việc anh em ca tụng Thiên Chúa…Chính
vẻ đẹp của việc ca tụng Thiên Chúa bộc lộ cho thấy lý do tại sao anh em có mặt
ở đây. Tôi phải thú nhận rằng hồi còn là sinh viên ở Downside, tôi không đạo
nghĩa lắm. Hồi ấy tôi trốn ra sau lớp hút thuốc và ban đêm trốn đi ra quán cà
phê. Tôi còn bị nhà trường cho về vì đã cả gan đọc một cuốn sách nổi tiếng
Người tình của Chatterly đang lúc Chầu Thánh Thể. Nếu tôi còn gắn bó với đức
tin, đó là vì tôi mắc nợ vẻ đẹp của những nơi như thế này: vẻ đẹp của những
bài hát trong Kinh phụng vụ, vẻ chói ngời của đan viện vào buổi ban mai, nét
toả sáng của thinh lặng. Chính vẻ đẹp đã ngăn không cho tôi bỏ tất cả.
Chắc chắn không phải là sự trùng hợp nếu như nhà thần học lớn về
vẻ đẹp, Hans Urs von Balthasar, đã được hưởng sự giáo dục đầu đời tại trường
học của đan viện Engelberg, một trường lừng danh về truyền thống âm nhạc.
Balthasar nói về sự tự mặc khải của cái đẹp, về uy thế nội tại của cái đẹp3.
Anh em không thể tranh luận với vẻ đẹp khi vẻ đẹp mời anh em. Mà cũng không
đẩy lui được. Và có thể ở đó chúng ta có sự biểu lộ của uy quyền Thiên Chúa
đang vang dội một cách mạnh mẽ nhất trong tâm hồn của những người đang sống
đồng thời với chúng ta, ở vào một thời mà nghệ thuật đã trở nên một thứ tôn
giáo. Ít người đi lễ Chúa Nhật, ngược lại ta thấy có cả triệu người trong các
buổi hoà nhạc, các bảo tàng viện và các phòng trưng bày triển lãm. Nơi vẻ đẹp,
chúng ta có thể thoáng thấy vinh quang lấp lánh của Đức khôn ngoan Thiên Chúa
khi Đức khôn ngoan sáng tạo thế giới đẹp hơn cả mặt trời (Kn 7). Trong bản
LXX, khi Thiên Chúa đã sáng tạo xong thế giới, thì Người thấy việc đó là
kalos, đẹp. Lòng nhân hậu mời chúng ta dưới dạng thức của vẻ đẹp. Khi nghe
thấy nét đẹp của bài hát, ta có thể đoán được tại sao các đan sĩ lại có mặt ở
đó, và thoáng thấy cái trung tâm bí mật của cuộc đời các đan sĩ, lời ca ngợi
vinh quang. Đây là điều hoàn toàn đặc sắc ở nơi thánh Basiliô: khi người nói
về những khát vọng thâm sâu nhất của tâm hồn người. Người nói về điều đó bằng
những từ ngữ của vẻ đẹp :
“Đó sẽ là kinh nghiệm nào nữa một khi tôi có thể biết kinh nghiệm này, trong
tất cả những gì là đẹp nhất, là đẹp nhất rồi! Đó là kinh nghiệm cao nhất
trong tất cả các kinh nghiệm về niềm vui và sung mãn. Điều đẹp nhất trong
các điều, tôi gọi đó là Thiên Chúa”[4].
Nếu vẻ đẹp quả là sự mặc khải điều tốt và điều thật, như thánh Thomas Aquinô
vốn nghĩ, thì khi ấy có lẽ ơn gọi của Hội Thánh một phần nào là trở thành một
nơi mặc khải vẻ đẹp đích thực. Một phần lớn âm nhạc hiện đại, ngay cả trong
các nhà thờ, quá là vô nghĩa đến độ khó có thể nói đó là một âm giai của cái
đẹp được. Đó là cái để vui đùa thôi, là hiện tượng kitsch, một điều đã được
miêu tả như là một thứ biến chất của sự vô nghĩa[5]. Sở dĩ như thế, có lẽ là
vì chúng ta rơi vào cái bẫy xem xét vẻ đẹp bằng những từ ngữ của việc sinh
lợi, như một cái gì đó hữu dụng giúp người ta mua vui trong một vài trống canh
thay vì thấy rằng cái gì đẹp thật thì biểu lộ cho thấy sự thiện.
Tôi hy vọng là anh em không cho là quá kỳ quặc khi tôi nói với anh
em rằng đời sống đan tu tự nó là một cái gì đó đẹp. Tôi cảm thấy hấp dẫn khi
đọc Tu luật của thánh Biển Đức, ngay ở đầu: “Ta gọi là Tu luật vì nó sắp xếp
cuộc đời của những người theo Tu luật này”. Tu luật sắp xếp. Thoạt nhìn, đối
với một người Đa minh, điều đó có vẻ là một cái gì đó rất là khuôn phép. Theo
kinh nghiệm của tôi, quả là khó bắt các tu sĩ vào khuôn phép. Nhưng ta có thể
nghĩ rằng Tu luật không có nghĩa là “kiểm soát”, nhưng đúng hơn cho ta ý tưởng
về mực thước, nhịp điệu của một cuộc sống đã có sẵn và đã thành hình. Có thể
nó gợi cho ta ý tưởng về một môn học như môn âm nhạc chẳng hạn. Thánh Âu tinh
từng cho rằng một cuộc đời đức hạnh là một cuộc đời có tính cách âm nhạc, tất
cả đều ở trong hoà điệu. Theo thánh nhân thì yêu thương tha nhân, chính là
“gìn giữ trật tự âm nhạc”[6]. Ân sủng là quí là đẹp và một cuộc sống của ân
sủng là vẻ đẹp thực sự.
Một lần nữa, chính việc ca hát trong phụng
vụ biểu lộ ý nghĩa cuộc đời của chúng ta. Theo thánh Tôma, vẻ đẹp trong âm
nhạc chủ yếu gắn liền với đức tiết độ. Không bao giờ được có gì thái quá. Âm
nhạc phải giữ được nhịp điệu chính đáng, không được nhanh quá mà cũng đừng quá
rề rà, nhưng là nhịp độ đúng mức. Thánh Thomas cho rằng một cuộc đời theo đức
tiết độ thì giữ cho chúng ta được trẻ trung và đẹp. Và điều Tu luật hình như
đề ra cách riêng, đó là một cuộc đời có mực thước, không có gì quá đà – cho dù
tôi không dám chắc chắn hoàn toàn rằng các đan sĩ giữ được nét đẹp và sự trẻ
trung hơn bất cứ ai khác! Trong quá khứ, Tu luật chấp nhận là các đan sĩ sẽ
không uống một giọt rượu nào, nhưng “vì chúng ta không thể thuyết phục các đan
sĩ kiêng rượu, trong khi họ uống một cách chừng mực”. Không được quá đà!
Tôi nhớ ông cậu dòng Biển Đức của tôi rất thích rượu, bởi vì rượu
cần thiết cho sức khoẻ của ông – ít là ông tin như thế. Vì ông qua đời lúc gần
trăm tuổi, cho nên ông có lý. Ông đã từng thuyết phục bố tôi và các chú tôi là
phải lo cho ông có mỗi ngày một chai bordeaux, tôi giả dụ bấy nhiêu là một
lượng chừng mực, hợp với điều Tu luật nói về vấn đề cân đong đo đếm[7] (ch.
40). Khi ông đưa lậu các cái món này vào trong đan viện, các đan sĩ luôn luôn
ngạc nhiên vì thấy cái giỏ của ông có tiếng kêu leng keng. Với sự giúp đỡ của
các cháu chắt ông, những lời giải thích mở rộng thêm đã được chuẩn bị từ
trước.
Khi chúng ta nghe các đan sĩ hát, chúng ta nhận thấy âm
nhạc làm thành cuộc đời chúng ta, một cuộc đời đã được dàn ra theo nhịp điệu
và sự hài hoà của Tu luật thánh Biển Đức. Lời ca ngợi của Israen đã trở thành
một chiếc ngai cho vinh quang của Thiên Chúa ngự trị.
II. MỘT CUỘC ĐỜI KHÔNG ĐƯA TỚI ĐÂU
Đời sống của các đan sĩ khiến cho những người lạ ngạc nhiên, không phải
chỉ vì anh em không làm gì đặc biệt, nhưng còn vì cuộc đời của anh em không
đưa tới đâu cả. Như trong mọi Dòng tu, đời sống của anh em không có được ý
nghĩa do việc leo lên những nấc thang cấp bậc. Chúng ta thuần túy là những
người anh em và những người chị em, các đan sĩ và các nữ đan sĩ. Chúng ta
không có gì phải khao khát để là gì hơn nữa. Một anh lính hoặc một giáo sư
sáng giá thì vượt ra khỏi hàng ngũ của họ. Cuộc đời của họ cho thấy nó có giá
trị vì người ấy có thể được tiến cử để làm giáo sư hay làm ông tướng. Chúng ta
lại không theo kiểu đó. Chỉ có mỗi bậc thang duy nhất ta biết trong Tu luật
của thánh Biển Đức đó là bậc thang khiêm nhường. Tôi tin là các đan sĩ, cũng
hệt như các anh em Đa minh chúng tôi, đôi khi nuôi dưỡng những giấc mơ thầm
kín làm sao để thăng tiến và ôm tham vọng trở thành anh thủ kho [quản lý] và
thậm chí được làm viện phụ. Tôi chắc chắn rằng có nhiều viện phụ soi gương và
tưởng tượng xem với cây thánh giá đeo trên ngực và cái mũ cà cuống trên đầu
thì mình giống như cái gì, và giả vờ ban phép lành hy vọng không có ai nhìn
thấy! Nhưng hẳn ai trong chúng ta cũng dư biết là không phải việc leo lên
thang chức bậc mà đúng hơn là việc mau bước tiến về Vương Quốc mới là nét tạo
hình cho cuộc đời của chúng ta. Thánh Biển Đức bảo Tu luật được ban cho chúng
ta để chúng ta vội vã tiến về quê hương của chúng ta nơi thiên quốc.
Tôi nhớ đến một viện phụ gia đình chúng tôi rất quí mến và người
lại có thói quen là cứ đến lễ Noel là người lại ghé đến nhà chúng tôi. Người
đáng khâm phục ở mọi điểm, trừ ra nếu có là người hơi có khuynh hướng trịnh
trọng cho ra vẻ viện phụ – đây không phải là trường hợp của bất cứ một người
nào đang hiện diện ở đây, tôi xin chắc chắn như vậy. Thế thì người được cả gia
đình chúng tôi ra nhà ga đón, và người cũng muốn là ở cửa số bốn, cứ sáu đứa
trẻ con một quì gối xuống trước mặt người để hôn nhẫn. Thái độ trọng kính này
ăn sâu trong gia đình đến nỗi có một người chị của tôi nổi danh vì thường quì
gối trước khi vào chỗ ngồi xem xi-nê! Mỗi lần viện phụ của chúng tôi đến thăm
gia đình là cuộc chiến chân đèn hằng năm bắt đầu. Số là viện phụ cương quyết
cho rằng một viện phụ thì có quyền được bốn chân đèn bằng bạc, nhưng bố tôi
không khoan nhượng, cứ luôn tuyên bố rằng ở nhà của ông thì mọi linh mục đều
được số chân đèn như nhau!
Ngày nay, đối với đa số người, một cuộc
đời mà không có thăng cấp là một cuộc đời không có ý nghĩa, bởi vì sống có
nghĩa là nhảy vào đấu trường để giành lấy chiến thắng, một là tiến hai là toi.
Ấy chính vì thế mà cuộc đời của chúng ta cứ là một điều bí ẩn, là một dấu chấm
hỏi. Bên ngoài thì cuộc đời ấy chẳng đưa tới đâu. Hồi tôi mới được bầu làm
Tổng Quyền Dòng, một anh nhà báo tên tuổi đã viết một bài trong tờ New
Catholic Reporter. Anh ấy kết thúc bài báo bằng cách ghi nhận rằng đến khi tôi
kết thúc nhiệm kỳ thì tôi mới chỉ có 55 tuổi. “Rồi sau đó Radcliffe sẽ làm
gì?” anh ta hỏi như thế. Khi đọc bài báo ấy, tôi rất khó chịu. Cứ như thể là
người ta tước mất lý do hiện hữu của cuộc đời tôi vậy, và người ta muốn buộc
tôi phải đi vào những phạm trù (loại) khác. Radcliffe sẽ làm gì sau đó? Theo
cái logic đó thì cuộc đời của tôi chỉ giữ được ý nghĩa nếu có một cuộc lên
chức mới. Nhưng tại sao tôi lại phải làm điều khác hơn là sống tư cách một tu
sĩ Dòng Đa Minh? Cuộc đời của chúng ta có ý nghĩa thực của nó, đúng vậy, trong
sự thiếu vắng sự thăng tiến, để chỉ cho thấy Thiên Chúa là mục đích tối hậu
của cuộc đời chúng ta.
Một lần nữa, tôi lại phải nói rằng chính
trong khi hát Kinh phụng vụ mà phát biểu trên đây có ý nghĩa, khi ta lại đi
vào lịch sử dài của công trình Cứu Chuộc. Đầu năm nay, tôi có dịp đi tới nhà
thờ chính toà Monreale ở Sicile, cạnh đan viện Biển Đức cổ kính. Tôi có ít
thời giờ, nhưng trước khi đi, người ta bảo tôi rằng kẻ nào đi Palermo mà không
thăm Monreale thì kể như khi đến thì là một con người nhưng khi đi thì lại như
một con lợn! Đấy là một kinh nghiệm đáng kể. Toàn thể bên trong đầy những bức
ảnh màu rực rỡ thuật lại lịch sử công trình sáng tạo và cứu chuộc. Vào trong
nhà thờ tương đương với việc đặt mình lại trong lịch sử, trong lịch sử của
chúng ta. Đó là lịch sử đích thực của nhân loại, mà không phải là cuộc đấu
tranh để leo lên đến ngọn cây. Đó là một mặc khải cấu trúc của thời gian đích
thực. Lịch sử đích thực không phải là một lịch sử của thành đạt cá nhân, của
lên thang cấp bậc hoặc tranh giành: đó là lịch sử của hành trình nhân loại
tiến đến Vương Quốc. Lịch sử được cử hành mỗi một năm trong chu kỳ phụng vụ từ
mùa Vọng tới lễ Hiện Xuống, lịch sử lên cao điểm trong màu xanh của mùa Thường
niên, thời của chúng ta.
Đó mới là thời gian đích thực, ôm ấp tất
cả các biến cố nhỏ nhoi cũng như những tấn bi kịch của cuộc đời chúng ta. Đó
là thời gian gom góp những thất bại và những chiến thắng con con trong hành
trình của chúng ta lại và cho chúng một ý nghĩa. Việc cử hành năm phụng vụ
trong đan viện là sự mặc khải thời gian đích thực, tức là lịch sử duy nhất
quan trọng. Những giai đoạn khác nhau trong phụng vụ một năm – mùa Thường
niên, lễ Giáng sinh, mùa Chay và lễ Phục sinh – phải được làm cho khác nhau
đủ, với những cung những điệu hát khác nhau, như mùa xuân khác với mùa hè và
mùa hè lại khác với mùa thu. Các thời gian ấy phải phân biệt nhau đủ để không
bị nhận chìm bởi những nhịp điệu khác, như năm tài chánh, năm học, tức là
những năm chúng ta tính được và làm nên tuổi của chúng ta. Một người anh em
Nam Triều Tiên chúng tôi tên là Kim en Jong đã tạo ra những cái áo lễ trên đó
nổi hẳn những trang trí màu sắc của các mùa.
Thường thì phụng vụ
hiện đại không chuyển tải điều đó. Khi anh em đi hát Kinh Chiều, thì có thể là
cả năm lúc nào cũng như lúc nào, cũng bấy nhiêu sự. Nhưng trong cộng đoàn
Oxford nơi tôi đã sống hai mươi năm, chúng tôi soạn ra những điệp ca cho mỗi
một mùa. Ngay cả khi tôi đi đây đi đó, tôi vẫn như thể đang nghe thấy những
điệp ca đó. Đối với tôi, mùa Vọng gợi lên một số làn điệu của các bài thánh
thi, các điệp ca riêng cho kinh Benedictus hoặc Magnificat. Chúng tôi biết lễ
Noel gần bên rồi khi chúng tôi nghe những điệp ca cổ kính “O”. Tuần Thánh thì
có những Ai ca của ngôn sứ Giêrêmia. Chúng tôi được sống nhịp độ của năm phụng
vụ như là nhịp độ thâm sâu nhất của cuộc đời chúng tôi. Phụng vụ trong đan
viện nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta đang tiến đến Vương Quốc của Thiên Chúa.
Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra ngày mai hoặc thế kỷ tới. Chúng ta không
cần phải đưa ra những lời tiên báo, nhưng sự khôn ngoan của chúng ta là sống
cho mục đích tối hậu kia.
Tôi xin thêm một chút để linh động câu
kết trên đây. Nói rằng các tu sĩ sống vì Nước Trời đang tới thì dễ, nhưng
trong thực tế, thường chúng ta không thực hành điều đó. Năm phụng vụ vạch ra
vương đạo đi tới sự tự do nhưng chúng ta không vay mượn nó mãi mãi. Theo thánh
Thomas, việc đào tạo, đặc biệt là việc đào tạo về luân lý, mãi mãi là đào tạo
sao cho biết thế nào là tự do. Nhưng việc đi vào trong tự do chậm chạp và nhọc
nhằn, nó có những sai lầm, những lựa chọn chẳng ra đâu vào đâu, rồi cả tội lỗi
nữa. Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ Ai cập và dẫn đưa chúng ta
tới sự tự do của hoang địa nhưng chúng ta lại đâm hoảng và lại để cho chính
mình trở thành nô lệ con bò vàng hoặc tìm cách quay trở lại Ai cập. Đó đúng là
bi kịch trong cuộc sống thường nhật của một đan sĩ: không phải là tìm hiểu xem
trong các thứ bậc của bổn phận có cái gì để gọi là thăng chức hay không nhưng
là học tập cho biết sống sự tự do, với những đổ vỡ vẫn hay diễn ra trong tính
cách ấu trĩ và nô lệ. Liệu chúng ta có thể đem lại một ý nghĩa cho dấu thăng
tiến đến sự tự do của Thiên Chúa và cho dấu giáng vẫn năng diễn ta trong sự nô
lệ này như thế nào? Một lần nữa: có thể chính trong âm nhạc là chỗ chúng ta
tìm ra chìa khoá để mở vấn đề.
Theo thánh Âu tinh, lịch sử nhân
loại ví như thể một bản độc tấu, trong đó có đủ cả những đối âm và những dị âm
tức là những yếu đuối của con người, nhưng sau cùng nó cũng phải đi tới chỗ
thành một bài nhạc trong đó mỗi thứ đều có chỗ của mình. Trong tác phẩm đáng
chú ý, De musica, thánh nhân viết: “Những dị âm có thể được chuộc lại mà không
bị hủy đi”[8]. Lịch sử ơn Cứu Chuộc ví được như một bản đại hoà tấu ôm ấp hết
mọi sai lầm của chúng ta, xoá đi mọi ngu muội của chúng ta và sau cùng trong
đó vẻ đẹp toàn thắng. Chiến thắng không có nghĩa là Thiên Chúa xoá sạch mọi
nốt nhạc không hay hoặc tuyên bố rằng chúng không hề có. Người tìm cho chúng
một chỗ trong bản hoà tấu, bản hoà tấu chuộc lại những nốt nhạc không hay.
Điều ấy lên đến đỉnh cao trong Thánh Thể. Theo kiểu nói của Catherine de
Pickstock, “âm nhạc cao nhất trong cái thế giới sa đoạ này, âm nhạc có tính
cách cứu chuộc, không là gì khác hơn là hiến tế không ngừng được lặp lại của
chính Đức Kitô, hiến tế ấy làm nên âm nhạc Thánh Thể không ngừng được lặp
lại”[9].
Thánh Thể là việc nhắc đi nhắc lại đỉnh cao trong bi kịch
của việc giải phóng chúng ta. Đức Kitô tự do ban tặng thân mình Người, nhưng
các môn đệ bỏ Người, chối Người, trốn xa Người, mạnh bạo quả quyết là không
biết Người. Ở đây, trong âm nhạc là những mối tương quan của chúng ta với
Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy những gì là bất hoà điệu sâu xa nhất. Nhưng
trong Thánh Thể, chúng được thu góp lại, được ôm ấp lấy và được biến đổi thành
vẻ đẹp, trong một hành vi yêu thương và ban tặng. Trong bản nhạc là Thánh Thể
này, chúng ta được làm lại hoàn toàn và chúng ta tìm lại được sự hoà điệu.
Chính cách giải hoà điệu không xoá bỏ những thái độ từ chối yêu thương và tự
do hoặc muốn làm cho tin rằng chúng không hề có, nhưng biến đổi chúng từng
chặng một trên một lộ trình. Trong các cuộc cử hành chúng ta dám tưởng niệm sự
yếu đuối của các Tông Đồ.
Như vậy đan sĩ có ý nghĩa nhờ cuộc đời
của mình mà kết thúc là Vương Quốc. Lịch sử của chúng ta là lịch sử của nhân
loại trong cuộc hành trình tiến đến Vương Quốc. Chúng ta diễn tả trong chu kỳ
năm phụng vụ, từ công cuộc Sáng tạo cho đến Vương Quốc. Nhưng bi kịch hằng
ngày trong cuộc đời của người đan sĩ lại phức tạp hơn, với những đấu tranh và
những yếu đuối để trở nên tự do. Bản hoà tấu hằng năm của cuộc hành hương tiến
về Vương Quốc cần được chấm phá bằng những nốt nhạc hằng ngày là Thánh Thể,
nhìn nhận rằng chúng ta vẫn cứ hay từ khước theo con đường tiến đến
Giêrusalem, con đường đưa tới cái chết và tới cuộc Phục sinh, mà chọn kiếp nô
lệ. Chúng ta cần tìm lại mình mỗi ngày trong bản nhạc là Thánh Thể, trong đó
không thể có dị âm nào quá mạnh đến độ ở ngoài tầm hoá giải sáng tạo của Thiên
Chúa.
III. KHOẢNG KHÔNG NỘI TÂM
Cuối cùng, chúng ta đi tới cái làm thành yếu tố nền tảng của đời sống
đan tu, cái là đẹp nhất nhưng cũng là khó miêu tả nhất: đức khiêm nhường. Đó
là cái những người đến thăm các đan viện của anh em ít có thể nhìn thấy trực
tiếp nhất, thế nhưng mà lại là nền của toàn thể công trình. Đức hồng y Hume
nói: đức khiêm nhường “trông thì rất đẹp, nhưng nỗ lực để trở nên khiêm nhường
thì quả là thương đau”[10]. Chính
đức khiêm nhường thu xếp để có được một khoảng không trống trải cho Thiên
Chúa, ở đó Người có thể lưu lại và ở đó vinh quang của Người có thể được chiêm
ngắm. Nói cho cùng, chính đức khiêm nhường làm cho các cộng đoàn của chúng ta
thành ngai của Thiên Chúa.
Ngày nay, khó tìm được từ để nói về đức
khiêm nhường. Xã hội của chúng ta hầu như mời chúng ta vun đắp điều trái ngược
lại, tức là một khuynh hướng xác định mình cách tự mãn, một sự bảo đảm dữ dội.
Con người thành đạt tiến lên phía trước mang theo một thái độ gây hấn. Khi đọc
thấy, ở cấp độ thứ bảy của đức khiêm nhường, rằng chúng ta phải học cho biết
nói cùng với vị ngôn sứ: “Tôi là một con sâu chứ không phải là một con người”,
chúng ta đâm khựng lại. Phải chăng vì chúng ta quá kiêu căng? Hoặc giả vì
chúng ta không dám chắc về chính mình, quá ít xác tín về giá trị của chúng ta?
Có thể chúng ta không dám khẳng định rằng chúng ta là những con sâu vì chúng
ta luôn sợ hãi do nói như thế thì là quá đúng.
Làm thế nào để xây
dựng những cộng đoàn có khả năng làm dấu chỉ sống động cho vẻ đẹp của đức
khiêm nhường? Làm thế nào chúng ta có thể biểu lộ sức mạnh lôi cuốn của đức
khiêm nhường trong một thế giới thích gây hấn? Chỉ có anh em là những người có
thể trả lời cho câu hỏi đó. Thánh Biển Đức đã là bậc thầy về đức khiêm nhường.
Tôi không dám chắc rằng đức khiêm nhường luôn luôn là nhân đức nổi bật nơi mọi
anh em Đa Minh! Nhưng tôi cũng xin chia sẻ với anh em một suy nghĩ vắn. Khi
nghĩ đến đức khiêm nhường, chúng ta có thể quan niệm nó như một thứ đồ vật vô
cùng cá nhân và riêng tư: tôi quan sát tôi để thấy rằng tôi khốn nạn biết
chừng nào, tôi xét đi xét lại bên trong tôi về những phẩm tính kết nối tôi với
một con sâu đất. Có đó, ít là phần nào, một cái nhìn đúng là đè bẹp. Có lẽ
thánh Biển Đức mời chúng ta làm một cái gì đó giải phóng hơn: kiến tạo một
cộng đoàn trong đó chúng ta được giải phóng khỏi những sự kình địch, ganh đua
hoặc đấu đá để có quyền hành. Đây là một típ cộng đoàn mới, xây dựng trên sự
trọng kính và vâng phục lẫn nhau. Đây là một cộng đoàn trong đó chẳng có ai là
người chiếm vị trí trung tâm. Trung tâm vẫn cứ là để trống, một khoảng không
trống trải chỉ được đầy ắp do vinh quang của Thiên Chúa mà thôi. Điều ấy cũng
hàm chứa một thách đố thực sự đối với hình ảnh hiện đại về cái tôi, về cái tôi
tự bản chất là đơn độc, hoàn toàn qui về bản thân mình, cho mình là cái rốn
của thế giới và là cái trục chính yếu mọi cái khác đều phải xoay chung quanh
đó. Căn tính của nó không gì khác hơn là cái ý thức nó có về chính bản thân
mình. “Tôi suy tư cho nên tôi hiện hữu”.
Đời sống đan tu mời chúng
ta rời bỏ cái trung tâm ấy đi và để cho mình chuyển động do sức lôi cuốn của
ân sủng. Đời sống ấy mời chúng ta không coi mình là trung tâm. Một lần nữa,
Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta trong một chỗ trống không, và chúng ta thấy
trong trường hợp này, ở trung tâm cộng đoàn, khoảng không gian trống trải dành
riêng cho Thiên Chúa. Chúng ta phải sửa soạn một chỗ để Lời đến cư ngụ giữa
chúng ta, một khoảng không ở đó Thiên Chúa có thể hiện hữu. Như thế, khiêm
nhường không hệ tại ở chỗ ta ghét bản thân ta hay nghĩ rằng ta là đáng khinh
đáng ghét. Đúng hơn, khiêm nhường là làm cho trái tim của cộng đoàn thành
hình, bằng cách mở ra một khoảng không ở đó Lời có thể đến mà dựng lều của
Người.
Một lần nữa: tôi nghĩ rằng chính trong phụng vụ chúng ta có
thể gặp thấy mặc khải của vẻ đẹp này. Thiên Chúa đặt ngai của Người trên các
lời ca tụng của Israen. Chính khi nhìn thấy các đan sĩ hát những lời ca tụng
Thiên Chúa mà người ta có thể nhận thấy sự tự do và vẻ đẹp của đức khiêm
nhường. Thời Trung Cổ, người ta vốn cho rằng một hoà điệu âm nhạc đàng hoàng
đi đôi với việc kiến tạo một cộng đoàn hài hòa[11]. Âm nhạc chữa lành tâm hồn
và cộng đoàn. Chúng ta không thể đồng thanh ca hát nếu mỗi người cứ tìm cách
làm sao cho mình nổi lên, cố để cho tiếng của mình lớn hơn tiếng của người bên
cạnh. Đàn ca hát xướng là việc chúng ta cùng nhau làm. Tôi chắc rằng chung
nhau ca hát cho du dương hoà hợp, học xướng lên nốt nhạc thích hợp và tìm được
chỗ đúng đắn của nó trong làn điệu là cách để dạy chúng ta trở nên những người
anh em và, do chính sự kiện đó, tỏ cho người khác thấy chung sống không đối
địch không tranh đua nghĩa là gì.
Trong tất cả những chuyện đó,
vai trò của viện phụ là vai trò nào? Tôi ngại phải nói chuyện này, vì trong
lịch sử Dòng Đa Minh, chúng tôi chỉ có mỗi một người được gọi là viện phụ, một
người anh em nào đó tên là Mátthêu. Nhưng đó cũng đúng là một tai hoạ, đến độ
sau đó chúng tôi không bao giờ có một viện phụ nào khác nữa. Nhưng viện phụ có
thể là người giữ khoảng không mở để đón Đức Kitô, ở trung tâm. Muốn diễn tả
điều ấy theo ngôn ngữ âm nhạc, viện phụ sẽ không để cho mình thống trị tiếng
hát ca, bóp nghẹt tiếng của các đan sĩ khác, làm cho mình thành một
Pavarotti[12] của đan viện. Viện phụ sẽ là người để cho sự du dương hoà hợp
dẫn dắt. Và anh em có thể nhận thấy tức thì ngay trong cách hát. Người ta có
thể nhận thấy phẩm chất của một cộng đoàn bằng cách nghe cộng đoàn ấy hát. Các
thầy dòng Biển Đức và các anh em Đa Minh hát khác nhau!
Đỉnh cao
của đức khiêm nhường, đối với một đan sĩ , đó là khi đan sĩ khám phá thấy rằng
không phải chỉ có việc mình không phải là cái rốn của thế giới, nhưng mình
thậm chí chẳng phải là trung tâm của chính mình nữa. Không phải chỉ có một sự
trống vắng ở trung tâm cộng đoàn để Thiên Chúa ngự ở đó, nhưng còn có một
khoảng trống giữa hiện hữu của tôi nữa, ở đó Thiên Chúa có thể dựng lều của
Người. Tôi là một thụ tạo được Thiên Chúa ban cho hiện hữu vào mỗi một giây
phút. Trong các bức ảnh kính màu ở đan viện Monreal, ta thấy Thiên Chúa đang
sáng tạo Ađam. Thiên Chúa cho ông Ađam hơi thở của Người và giữ ông trong hiện
hữu của Ngưởi. Ở giữa hiện hữu của tôi, không phải chỉ có mình tôi. Thiên Chúa
đang ở đó, thổi cho tôi hiện hữu mỗi phút giây, cho tôi hiện hữu. Ở trung tâm
của bản thân tôi, không phải là cái tôi đơn độc hoặc theo kiểu Descartes,
nhưng còn có một khoảng không đầy tràn Thiên Chúa.
Có thể ơn gọi tối hậu của đan sĩ là tỏ cho thấy vẻ đẹp của sự trống vắng này,
cả cá nhân lẫn cộng đoàn trở thành những ngôi đền thờ trong đó vinh quang
Thiên Chúa có thể lưu lại. Anh em đừng ngạc nhiên nếu tôi nghĩ rằng điều đó
được biểu lộ trong việc hát lên những bài ca ngợi Thiên Chúa. Ở đây, tôi đã đi
quá đề tài tôi thực sự có thẩm quyền để nói, nhưng tôi chỉ đề cập đến đề tài
ấy vì tôi thấy điều đó hấp dẫn. Nếu anh em cho rằng tôi nói linh tinh, thì có
thể là anh em có lý!
Bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào cũng đều là âm
vang của công trình sáng tạo tiên khởi. Chính trong nghệ thuật mà chúng ta có
ý tưởng xác đáng nhất về việc sáng tạo thế giới từ hư vô có nghĩa là gì đối
với Thiên Chúa. Nét độc sáng của mỗi công trình nghệ thuật đưa về nguồn gốc
của tất cả những gì đang hiện hữu. Mỗi bài thơ, mỗi bức hoạ, mỗi công trình
điêu khắc, mỗi bài hát đều cho chúng ta ý tưởng về việc đối với Thiên Chúa
sáng tạo nghĩa là gì. Georges Steiner viết:
“Ở ngọn nguồn của bất kỳ hành vi nghệ thuật nào đều có giấc mơ về một sự lưu
xuất khởi đi từ hư vô, một sự sáng tác ra một hình thức diễn tả thật mới mẻ,
thật đặc sắc từ tác giả, đến nỗi nó bỏ thế giới đi trước lại đằng sau thật
xa”[13].
Trong truyền thống Kitô giáo, điều đó đặc biệt đúng đối với âm nhạc. Theo
thánh Âu tinh, chính trong âm nhạc, nơi âm thanh phát khởi từ thinh lặng, mà
chúng ta có thể thấy điều mà nó tượng trưng về một vũ trụ chẳng dựa trên gì
cả, là bất tất và, đối với chúng ta, là những thụ tạo: “Sự luân chuyển giữa âm
thanh và thinh lặng trong âm nhạc được thánh Âu tinh quan niệm như là biểu lộ
sự luân chuyển của cái đến hiện hữu và đi qua đến không hữu thể, làm nét đặc
biệt cho một vũ trụ được sáng tạo từ hư vô”[14]. “Trong âm nhạc, chúng ta nghe
thấy – tôi lại trích dẫn Steiner – dấu vết không ngừng được đổi mới của khoảnh
khắc uyên nguyên, không bao giờ tới được hoàn toàn, của công trình sáng tạo
(…), sự kiện thứ nhất không thể đạt tới được”[15]. Đó là tiếng vang của big
bang hoặc, nói như Tavener là tiền âm vang của sự thinh lặng thần thánh.
Giữa lòng cuộc đời đan tu có đức khiêm nhường. Tôi nghĩ rằng không
phải là sự khiêm nhường cực kỳ, đè bẹp của những kẻ ghét bản thân mình, nhưng
là sự khiêm nhường của những người nhìn nhận mình là những thụ tạo và đón nhận
cuộc hiện hữu của mình như là một ân huệ. Và như vậy ca hát có giữ vị trí
trung tâm trong cuộc đời của anh em cũng là chuyện bình thường. Vì chính trong
việc ca hát này chúng ta biểu dương hoạt động của Thiên Chúa, nguyên nhân của
muôn vật muôn loài. Anh em ca hát ngợi khen Lời của Thiên Chúa nhờ Người muôn
vật đã được tạo thành. Chúng ta có thể thấy ở đây vẻ đẹp còn hơn là một thú
vui đơn thuần. Đây là vẻ đẹp để mừng công trình Sáng tạo ra đời.
Để kết luận. Tôi đã trình bày trong bài nay rằng vinh quang Thiên
Chúa luôn luôn cần một khoảng không, một khoảng trống, để bộc lộ chính mình:
khoảng không ở giữa các cánh của Kêrubim trong Đền Thờ; ngôi mộ trống; một Đức
Giêsu biến mất ở Emmaus. Tôi đã gợi ý rằng nếu anh em thu xếp được những
khoảng không trống trải như thế trong cuộc đời của anh em, bằng cách trở thành
những con người không có lý do hiện hữu đặc thù [I], tức là cuộc đời chẳng đưa
đến cái gì cả [II], và không sợ nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình [III],
bấy giờ các cộng đoàn của anh em sẽ nên những ngai vàng cho vinh quang Thiên
Chúa ngự trị.
Điều tôi hy vọng thoáng thấy trong các đan viện thì
còn hơn là điều tôi có thể nói lên. Vinh quang của Thiên Chúa vượt khỏi mọi
lối diễn tả. Mầu nhiệm làm vỡ tung những ý thức hệ bé nhỏ hẹp hòi của chúng
ta. Như thánh Thomas Aquinô, chúng ta thấy là tất cả những gì chúng ta có thể
nói chỉ là rơm là rác. Điều ấy phải chăng hàm ý tốt hơn là thinh lặng không
nói gì cả? Không, vì các đan viện không phải chỉ là những nơi thinh lặng mà
thôi, nhưng cũng còn là những nơi người ta ca người ta hát. Chúng ta phải tìm
những cách thế để ca hát cho đến tận giới hạn của ngôn ngữ, cho đến tận những
ranh giới của điều bất khả diễn đạt.
“Bạn hỏi hát lên với tiếng
reo hò nghĩa là gì. Nghĩa là không chịu hiểu, không chịu nói với những từ ngữ
điều đang được hát lên trong tâm hồn. Bạn cứ nhìn những người đang hát, những
người thợ gặt, những người thợ hái nho hoặc những người khác mà coi, niềm vui
của họ trước hết được khơi lên trong những lời lẽ của bài ca, nhưng không bao
lâu niềm vui át hẳn những lời đó, và lời lẽ trở thành không còn khả năng để
giãi bày niềm vui nữa. Bấy giờ, họ bỏ từ ngữ bỏ chữ nghĩa đi và ta chỉ còn
nghe thấy tiếng reo hò của họ mà thôi. Đó là nhạc không lời, bởi vì trái tim
muốn giãi bày điều không thể nói ra được. Việc reo hò này còn xứng hợp với ai
hơn là xứng hợp với Thiên Chúa khôn tả?”[16]
Chú thích
- ......
- In Praise of Benedict, p.23
-
Aidan Nichols, o.p., The Word has been Abroad, Edimbourg, 1998, p.1
-
To be a Pilgrim, Stough, 1984; édition francaise: Être pèlerin,
Mediaspaul, 1984, p. 35
- George Steiner, Reelles Présences, Paris, Gallimard, 1991
- Th. Augustinô, De Musica, VI,14,46
- Một đơn vị có dung lượng tương đương với 25 cl
- Ibid., p.265
-
“Music: Soul and city and cosmos after Augustine” trong: John Millbank,
er al., Radical Orthodoxy, Londres, 1999, p.276, note 131
- Être pèlerin, p.60
- x. C. Pickstock, p. 262
- Danh ca giọng ténor người Italia, nổi tiếng thế giới
- G. Steiner, p. 202
- C. Pickstock, p. 247
- G. Steiner, p. 202, 210
-
Thánh Augustinô, in Ps. 32, Sermo 1,8 trong “Prier Dieu, les psaumes”.
Paris, Éd. du Cerf, 1982, p. 185