Thời sự Thần học – Số 3, tháng 8/2009, tr. 68-74
_Phaolô Cao Chu Vũ_
1. Khái niệm “xã hội” bị giản lược
2. Tình liên đới xây dựng một xã hội công bằng
3. Xã hội công bằng cần có những “cơ cấu liên đới”
4. Thực thi tình liên đới
Sự thật sẽ giải thoát anh em (Ga 8,32)
1. Khái niệm “xã hội” bị giản lược
2. Tình liên đới xây dựng một xã hội công bằng
3. Xã hội công bằng cần có những “cơ cấu liên đới”
4. Thực thi tình liên đới
1. Thực trạng của thế giới
2. Những nguy cơ của việc phát triển không tương xứng
3. Những nguyên tắc cho sự phát triển toàn diện và bền vững
4. “Caritas in Veritate”: nền tảng cho sự phát triển toàn diện và bền vững
Bác ái (caritas)
là một phần quan trọng làm nên bản chất và sứ vụ của Giáo hội. Thực vậy, bản chất
Giáo hội được thể hiện qua một trách nhiệm bao gồm ba hoạt động: rao giảng Lời
Chúa (kerygma-martyria) cử hành các Bí tích (leiturgia), phục vụ bác
ái (diakonia). Những hoạt động này lệ thuộc nhau và không thể tách rời nhau[1].
Đức giáo hoàng Phanxicô nói rõ hơn: “Bác ái là một phần thiết yếu của Giáo hội.
Nếu không có bác ái thì không có Giáo hội. Bác ái thể hiện tình yêu của Giáo hội,
và Giáo hội tự thể hiện qua bác ái”[2].
Trong Giáo hội, mọi thành phần đều có trách nhiệm thực thi bác ái, nhưng
Caritas là tổ chức được Giáo hội giao vai trò đại diện Giáo hội trong lãnh vực
này.
I. Cổ thời (tk I-VII)
A. Những định chế và thực hành bác ái
B. Những nền tảng thần học.
1/ Hội thánh nguyên thủy: a) Giáo hội là nhiệm thể Đức Kitô; b) Mục tiêu của tài sản; c) Đức Kitô nơi người nghèo.
2/ Từ thế kỷ IV. a) Những lý do tự nhiên: con người sống trong xã hội; mục tiêu sử dụng tái sản. b) Những lý do lịch sử cứu độ: Kitô học; phẩm giá con người; hiệu quả đền tội của việc bác ái.
II. Thời Trung đại (tk.VII-XV)
A. Những dữ kiện lịch sử
B. Những nền tảng thần học: 1/ Kitô học. 2/ Giáo hội học. 3/ Công bình và bác ái
III. Thời cận đại (tk. XVI-XVII)
A. Những định chế mới
B. Sự tiến triển trong quan niệm về người nghèo và bác ái
C. Ý thức hệ mới
IV. Thời đương đại (tk. XVIII-XX)
A. Thế kỷ XVIII
B. Thế kỷ XIX
C. Thế kỷ XX.
Giáo huấn xã hội của Giáo hội kể tình liên đới vào số những nguyên tắc căn bản, nhưng không đưa ra một định nghĩa chính xác về thuật ngữ này. Tác giả, giáo sư thần học tại đại học Navarra (Tây Ban Nha), khi ôn lại nguồn gốc và sự tiến triển của thuật ngữ này, cho thấy nó mang nhiều ý nghĩa khác nhau trong lịch sử. Đã có lúc tình liên đới được sử dụng để đối lại với đức bác ái Kitô giáo. Mặt khác, ngay trong các văn kiện của Giáo hội, tình liên đới cũng thay đổi ý nghĩa. Bài viết này muốn trình bày những khía cạnh khác nhau của tình liên đới, và đề nghị một định nghĩa của nó.
Nguồn: Sobre la formulación del principio de solidaridad de la Doctrina Social de la Iglesia. Teología y Vida 61/1 (2020) 21-46.
Viết tắt:
GHXH: Giáo huấn Xã hội của Hội thánh.
GLCG: Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo.
SRS: Thông điệp Sollicitudo Rei socialis của ĐTC Gioan Phaolô II (30/12/1987)
TLHTXH: Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo (Compendio della Dottrina sociale della Chiesa, 2004), bản dịch tiếng Việt của Ủy ban Bác ái Xã hội thuộc HĐGMVN.
Nhập đề: Bác ái xã hội hay công bình xã hội?
I. Bác ái
A. Caritas: 1. Từ ngữ. 2. Thần học về caritas. 3. Phân loại
B. Caritas socialis: 1. Nguồn gốc thuật ngữ. 2. Ý nghĩa
II. Công bình
A. Justitia: 1. Từ ngữ. 2. Lịch sử quan niệm triết học và thần học về justitia. 3. Phân loại
B. Justitia socialis: Lịch sử của thuật ngữ
III. Tương quan giữa Caritas và Justitia
A. Quan niệm cổ điển: tương quan giữa hai nhân đức
B. Những thách đố thời đại: công bình chống lại bác ái
C. Thông điệp Deus caritas est: 1. Bác ái và công bình xét như hai nhân đức. 2. Bác ái và công bình xét như đặc trưng của Giáo hội và của Nhà nước
Viết tắt:
DCE: Thông điệp Deus caritas est của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI (25-5-2005)
TLGHXH: Tóm lược Giáo huấn Xã hội (Compendio della dottrina sociale della Chiesa) do Hội đồng Tòa thánh về Công lý và Hòa bình xuất bản năm 2004.
Tác giả là giáo sư đại học San Antonio ở Murcia (Tây Ban Nha). Đây là bài thuyết trình tại cuộc hội thảo kỷ niệm 10 năm ban hành thông điệp Deus caritas est do Hội đồng Tòa Thánh “Cor unum” tổ chức tại Vatican vào các ngày 25-26/02/2006. Bài viết trình bày “thần học bác ái” như một ngành chuyên biệt của thần học, kết nạp những suy tư thần học về Tình yêu với những dữ kiện của khoa học nhân văn liên quan đến việc tổ chức công cuộc bác ái.
Nguồn: “The Encyclical Deus Caritas Est: Perspectives for a Theology of Charity”, in: Acts of The International Congress Love Never Fails Perspectives 10 years after the Encyclical Deus Caritas Est, Pontifical Council Cor Unum, Vatican City 2006, trang 105-121.
Chuyển ngữ: Ts. Gioan Nguyễn Long Quân
1. Thời nay, thần học bác ái được hiểu như thế nào?
1.1. Các hướng tiến của một ngành học đang phát triển
1.2. Những khó khăn hiện nay chung quanh chủ đề bác ái
1.3. “Cô bé lọ lem hay Người đẹp ngủ trong rừng” – sự vắng bóng thần học bác ái trong lĩnh vực suy tư, nghiên cứu và giảng dạy
2. Nền tảng thần học của tình yêu: đánh giá lại “Tình yêu” để suy tư thần học và thực tiễn về diakonia
2.3. Tình yêu: viễn tượng thông diễn khái niệm về thần học bác ái (DCE 3-11)
2.3. Hoạt động bác ái bắt nguồn từ Chúa Kitô
2.3. Chân tướng hoạt động bác ái của Hội thánh (DCE 31 tt)
3. Phải sống tình yêu như thế nào?
3.1. Viễn tượng lịch sử của thần học bác ái (DCE 20-26)
3.2. Viễn tượng trắc ẩn của thần học bác ái
3.3. Viễn tượng chứng tá của bác ái (DCE 31; 36 tt)
3.4. Viễn tượng đối thoại đại kết
4. Thần học bác ái như một khoa thần học chuyên biệt
Viết tắt: DCE = Thông điệp Deus caritas est. CIV = Thông điệp Caritas in veritate
Bài này được trích từ bộ “Từ điển Thần học Mục vụ Sức Khỏe” (Dizionario di Teologia Pastorale Sanitaria, a cura di G. Cinà – E. Locci – C. Rocchetta – L. Sandrin, Edizioni Camilliane, Torino 1997, trang 830-840)[1]. Lưu ý về từ ngữ. Tại Việt Nam, tên của cơ quan chính phủ phụ trách các người bệnh là “Bộ Y Tế”, nhưng được dịch sang tiếng Anh là “Ministry of Health” (Bộ Sức khỏe). Tương tự như vậy, tựa đề của bài viết là “Mục vụ sức khoẻ” (Pastorale sanitaria, pastorale della salute) mặc dù nói đến việc “chăm sóc người bệnh” (Y = chữa bệnh); vì thế tuỳ theo mạch văn sẽ được dịch là “y tế” hay “sức khoẻ”. Mục vụ sức khoẻ không chỉ là một ngành chuyên khoa của thần học mục vụ nhưng còn là một lãnh vực hoạt động mục vụ của Giáo hội.
Các môn đệ hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga 9,2-4).
Trong bài này, cha Gustavo Gutierrez phân tích quan điểm “lựa chọn người nghèo” từ ba khía cạnh: tâm linh, thần học và loan báo Tin Mừng. Nguồn: “The option for the poor arises from faith in Christ” in: Theological studies, 70 (2009) 317-326. Bản dịch tiếng Việt của Phêny Ngân Giang. Chú thích của tác giả trong (ngoặc tròn). Chú thích của dịch giả được đặt trong [ngoặc vuông].
Trong thông điệp Deus caritas est, Đức thánh cha Bênêđictô XVI lưu ý rằng bác ái là bổn phận của mỗi tín hữu, đồng thời cũng là bổn phận của cộng đồng Hội thánh (số 20). Điều này giả thiết một sự phối hợp và tổ chức các công cuộc từ thiện, như đã diễn ra ngay từ thời Hội thánh sơ khai. Bài này muốn trình bày những nét nổi bật của hoạt động bác ái của Hội thánh trải qua lịch sử.
Tác giả: Linh mục Antoni Esteve I Sera, Diaconia de la caridad cristiana. (Una aproximación teologica pastoral), Caritas diocesana de Orihuela-Alicante, cap. 2. “La tradición eclesial de la caridad institucional”, lấy từ địa chỉ internet: www.caritasoa.org/Documentos/teoypastoral.pdf.
Qua việc phân tích những song đối eros-agape, caritas-veritas, caritas-iustitita, bài này muốn trình bày thần học về caritas chi phối lãnh vực tín lý cũng như luân lý, bởi vì liên quan đến niềm tin vào Thiên Chúa và Hội thánh.
I. Eros - Agape
Một phần của bản văn này đã được trích dịch trong Giờ kinh Sách ngày 3/11. Ở đây chúng tôi dịch lại toàn thể bản văn, để nhận thấy việc móc nối lễ nghi phong thánh với việc khai mạc công đồng Vaticanô II, cũng như việc so sánh thánh Martinô với thánh nữ Catarina Siena, được phong thánh 500 năm trước. Dịch từ nguyên bản Latinh, đăng trong AAS 54 (1962) 306-309.