Hiển thị các bài đăng có nhãn Tôn giáo-tín ngưỡng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tôn giáo-tín ngưỡng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 6 tháng 9, 2023

CÁC CỘNG ĐỒNG ISLAM Ở ĐÔNG NAM Á

Thời sự Thần học - Số 24, tháng 6/2001, tr. 121-131.

_Châu Trần_


I. Islam du nhập vào Đông Nam Á


Ngay từ trước Công nguyên Đông Nam Á, do vị trí địa lý thuận lợi của mình đã có những mối liên hệ với các nền văn minh lớn ở lục địa như Trung Hoa và Ấn Độ, chủ yếu là Ấn Độ. Từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên đã có những thương gia Ấn Độ đến lập nghiệp ở các đảo thuộc Indonesia ngày nay, và cùng với họ là Ấn giáo và văn hóa Ấn bắt đầu xâm nhập vào đời sống của các dân tộc Đông Nam Á. Trong những thế kỷ đầu Công nguyên, trên các bán đảo và quần đảo ở Đông Nam Á đã xuất hiện nhiều vương quốc theo Ấn giáo với cách tổ chức hành chính theo kiểu Ấn Độ, áp dụng nền mỹ nghệ và tập quán Ấn Độ cùng với chữ Phạn.

Chủ Nhật, 3 tháng 9, 2023

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG ISLAM TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

Thời sự Thần học – Số 21 – Tháng 09/2000, tr. 103-119. 

_Châu Trần_ 
LTS: Islam giáo là tên gọi của một tôn giáo có gốc tiếng Arah là Islam, có nghĩa là phục tùng. Vì Islam được truyền bá vào Trung Hoa thông qua người Hồi, một bộ lạc sinh sống ở vùng Trung Á xưa, một người Trung Hoa gọi là đạo Hồi. Do đó, từ “Hồi Giáo” được dùng để chỉ tôn giáo này. Nhưng, thực ra ngay chính những người theo tông giáo này cũng không đồng ý với tên gọi như thế. Trong hướng đối thoại liên tôn, chúng tôi trân trọng giới thiệu nhiều kỳ một nghiên cứu xã hội học về cộng đồng Islam tại Thành Phố Hồ Chí Minh với ước mong “nối vòng tay lớn”.

Thứ Hai, 28 tháng 8, 2023

“MỘT LỊCH SỬ VỀ THIÊN CHÚA” CỦA KAREN ARMSTRONG

Thời sự Thần học – Số 22, tháng 12/2000, tr. 92-107. 

_ Đỗ Hữu Nghiêm_ 

LTS: Thời sự Thần học xin đăng bài viết này để rộng đường dư luận, đồng thời khơi dậy một suy tư mới về Thiên Chúa trong thế kỷ XXI, tuy có một số điểm không thuộc về quan điểm và lập trường của Thời sự Thần học.
Tác giả Karen Armstrong là một nữ tu sĩ, đã sống trong một dòng tu Công Giáo bảy năm. Sau khi ra khỏi dòng năm 1969, Cô theo học tại Viện Đại Học Oxford và tốt nghiệp Cử Nhân Văn Chương. Cô giảng dạy về văn chương hiện đại tại Viện Đại Học Luân Đôn, đồng thời làm Trưởng Ban Anh ngữ tại một Trường Nữ Trung Học Công Lập. Năm 1982, Cô trở thành một nhà viết văn và chuyên gia thảo phát chương trình thính thị và nay Cô là một nữ bỉnh bút người Anh có thế giá về các vấn đề tôn giáo. Năm 1983, Cô làm việc ở Trung Đông về một loạt phim tài liệu truyền hình gồm 6 phần về cuộc đời và sự nghiệp của thánh Phaolô. 

Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2023

THẮC MẮC VỀ SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA

Thời sự Thần học - Số 22, tháng 12/2000, tr. 76-91

_ Tuệ Trinh_  


Nhìn lại những thập niên gần đây, khi mức độ thiên tai, bạo lực và tội ác gia tăng, cuộc sống con người ngày càng trở nên mong manh và thường xuyên đối diện với nhiều hiểm họa. Trong bối cảnh đó, người kitô hữu không thể không thắc mắc tại sao nhân loại hôm nay phải gánh chịu bao tội ác và khổ đau. Ra như thế giới này đang đi vào giai đoạn hư hoại nặng nề, và Đấng sáng tạo chẳng hề ngó ngàng đến công trình của Người. Chẳng lẽ trần gian hôm nay vắng bóng Thiên Chúa? Nếu Người vẫn hiện diện, chẳng lẽ Người lại bó tay trước những thảm họa? Một Đấng sáng tạo như vậy có phải là vị Thiên Chúa mà người Công giáo vẫn hằng tôn thờ hay không?

Thứ Ba, 22 tháng 8, 2023

NGUỒN GỐC Ý NIỆM THƯỢNG ĐẾ

Thời sự Thần học - Số 22, tháng 12/2000, tr. 67-75. 

_Phương Nam_ 


Decartes là người đầu tiên đi từ chỗ nhận định: ta có ý niệm rõ ràng và phân minh về Thiên Chúa, đến chỗ tự hỏi: từ đâu có ý niệm đó trong tâm linh ta? Và chúng ta biết rằng Decartes đã giải đáp theo chủ thuyết của ông: Ý niệm đó là do Thiên Chúa sáng tạo nên và đặt trong tâm linh tôi, như vết tay của hóa công ghi lại trên tác phẩm của mình. Chúng ta không thể đứng trong lập trường duy tâm của Decartes, chúng ta cũng đi từ sự kiện như Decartes, nghĩa là chúng ta bắt đầu bằng cuộc nghiên cứu nhận thức rằng: con người có ý niệm về Thượng Đế, nhưng rồi thay vì đưa ra giải pháp liều lĩnh của thuyết duy tâm, chúng ta sẽ nhờ lịch sử của các tôn giáo để tìm ra xuất xứ của ý niệm đó. Các học giả nghiên cứu về lịch sử của các tôn giáo đều công nhận rằng: ý niệm về thần linh và Thượng Đế xuất hiện rất sớm. Sự kiện tôn giáo bao giờ cũng đi trước sự xuất hiện của những môn phái triết học. Nhìn vào bất cứ thời đại nào, chúng ta cũng thấy con người được sinh trưởng trong bầu khí tôn giáo, cả những triết gia vô thần như Nietzche, Marx, Sartre… cũng đã lớn lên trong xã hội tôn giáo, được giáo dục bởi một nền văn minh thấm nhuần tôn giáo, được giáo dục bởi một nền văn minh thấm nhuần tôn giáo. Lịch sử cho hay chính tôn giáo đã nêu lên vấn đề và cũng chính tôn giáo đã cung cấp phạm trù tuyệt đối là căn nguyên sinh ra hiện tượng siêu việt, là nền tảng ý niệm triết học về Thượng Đế. Mà nói tôn giáo là nói con người tôn giáo, nghĩa là con người đã tới trình độ suy nghĩ về tình trạng bất lực của mình. Cho nên không có tôn giáo ngoài con người tôn giáo, cũng không có suy tưởng ngoài con người suy tưởng.

Thứ Hai, 31 tháng 7, 2023

ĐỂ MÌNH TRỐNG RỖNG

Thời sự Thần học – Số 20, tháng 06/2000, tr. 106-111. 

_Georges Theotis_ 

Mặc dù ở những cấp độ khác nhau, tất cả các tôn giáo đều quan tâm tới sự thinh lặng. Đối với các tôn giáo độc thần, thinh lặng là một cách thức để đạt tới Thiên Chúa, nhưng đối với Phật giáo, đây lại là một mục đích tự thân. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu vài quan niệm về sự thinh lặng trong các tôn giáo. Giáo sĩ chuyển dịch.
“Đa số các tôn giáo đều duy trì một mối liên lạc đặc biệt với sự thinh lặng”
. Nó nằm ở trung tâm của kinh nghiệm về cái thánh thiêng. Cho dù theo đường lối khác nhau, nhưng lại gặp nhau ở những cách thức để hiểu và sống sự thinh lặng. Thinh lặng được coi như “phương thuốc trị liệu để tránh xao lãng tâm trí và là dấu chỉ cho thấy người thực hành đã vượt qua tâm trí”. Bộ luật của thánh Benoit, đặt nền móng cho lối sống đan tu Kitô giáo tây phương, đã truyền phải tránh “tội hay nói”. Và trong lịch sử của lối sống đan tu này, miệng lưỡi được coi như “cánh cửa rất nguy hiểm”. Vào thời Trung cổ, tu sĩ Guillaume Peyraut, dòng Đa Minh, đã xếp tội nói tào lao thành “mối tội đầu” thứ tám. Các tu sĩ Phật giáo cũng coi việc làm chủ lời nói là “một trong những giới luật quan trọng”.

Thứ Sáu, 28 tháng 7, 2023

KHỔNG GIÁO

Thời sự Thần học – Số 20, tháng 06/2000, tr. 98-105. 

_Djénane Kareh Tager_ 

Hoà là nguyên lý chỉ đạo của Khổng giáo.
Hoà trong gia đình và trong xã hội.
Để sống hoà, phải biết tôn kính các thầy giáo, tôn kính truyền thống, phẩm trật – phẩm trật xã hội và phẩm trật trong thiên nhiên.
Khổng giáo không bàn về Thiên Chúa hay mạc khải, nhưng chỉ dạy một khoa nhân bản hướng đến việc kính trọng, ý thức luân lý, tha thứ, khoan dung và đức tính con người, lòng nhân. 
Giáo sĩ chuyển dịch
Mỗi gia đình theo đạo Khổng đều có một bàn thờ ngay giữa gian nhà chính. Trên đó đặt bài vị tổ tiên, một bàn dâng hoa quả, chén nước hay trà. Mỗi buổi sáng, trước khi bắt đầu một ngày mới, mọi thành viên trong gia đình đều đến lạy trước bàn thờ, họ chào kính các bậc tổ tiên đã khuất, và bái kính sức mạnh liên kết các thế hệ. Sau đó, đến thăm các huynh trưởng trong gia đình, thăm hỏi các ngài có nhu cầu gì không. Họ bày tỏ lòng kính trọng[1] các anh của mình, những cử chỉ đó vừa là một lối sống, vừa là một hành vi cao cả mang tính tôn giáo trong truyền thống Khổng giáo.

Thứ Ba, 25 tháng 7, 2023

THIỀN VIPASSANA (Thiền minh sát tuệ)

Thời sự Thần học – Số 20, tháng 06/2000, tr. 89-96. 

_Đặng Sơn Vô Trú_ 


Thiền, cốt lõi của tất cả tám vạn bốn ngàn pháp môn tu tập của Phật giáo đều là sự tập trung tinh thần. Mới theo hình tướng, Thiền có vẻ giống như các pháp Yoga, Khí Công,… Nhưng trong bản chất, Thiền là cái gì khác hẳn.

Sự khác biệt giữa Thiền Phật giáo và các pháp tâm linh khác thì ở ngay trong tên gọi của Phật giáo. Phật là Biết, là Thức, là Tâm. Tất cả những gì thuộc về Phật giáo đều xoay quanh và qui về và thể hiện cái Biết, cái Thức, cái Tâm. Rồi đây, trong ngôn ngữ của Phật, ta còn tìm thấy vô vàn vô số những từ để nói về bản chất và sự tu tập của Phật giáo: Phật, Tâm, Thức, Trí, Huệ, Tuệ, Minh, Giác, Ngộ, Quang, Quan, Quán, Sát, Tỉnh Thức…

Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2022

SUY TƯ VỀ VĂN KIỆN TOÀ THÁNH “ĐỨC GIÊSU KITÔ, ĐẤNG MANG ĐẾN NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG”

Thời sự Thần học - Số 34, tháng 12/2003, tr. 73-100. 

👦Tất Trung - Minh Tuấn👨 


I. Dẫn nhập


Trong những năm gần đây, hiện tượng Thiền, Nhân Điện, Yoga... bắt đầu xuất hiện khá phổ biến trong sinh hoạt tâm linh của người Công giáo. Một số người ngay từ đầu đã dị ứng với những phương cách thực hành tâm linh “ngoại lai” này; số khác thì khăng khăng cho đây là những cách hành đạo có “màu sắc” tà ma ám khí, số nữa lại hồ hởi tiếp nhận vì coi đây chỉ là một trong những cách thế khai mở và tiếp cận tâm linh vốn rất am hợp với truyền thống Kitô giáo. Bên cạnh đó, theo nhận định của những Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm về Thiền, Yoga, Nhân điện..., phần đông đều khẳng định những cách thực hành tâm linh theo kiểu phương Đông này đều đem lại cho trực giác của mình những diệu cảm khó tả. Mặt khác, có người ban đầu chỉ đến với Thiền, Yoga, Nhân điện... như một phương dược trị liệu, nhưng sau một thời gian luyện tập, họ cảm nhận rằng những phương pháp tiếp cận tâm linh này cũng rất đắc dụng giúp họ thăng tiến đời sống tâm linh Kitô giáo.

Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2022

NEW AGE TRONG VÒNG TRANH LUẬN : MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH

Thời sự Thần học - Số 34, tháng 12/2003, tr. 66-72. 

_Tsth biên tập_ 


Ngày 3 tháng hai, năm 2003, Hội đồng Giáo hoàng đặc trách Văn hoá và Hội đồng Giáo hoàng đặc trách Đối thoại liên tôn đồng công bố một văn kiện tổng quát về New Age.

Dưới đây là những ý kiến về văn kiện này của triết gia Michel Lacroix, của nhà thần học và nhân học Bernard Ugeux.

1. Michel Lacroix[1] : Một hồi chuông cảnh giác đúng lúc


Trước khi tiếp cận văn kiện này, nên có một câu hỏi trước : vào năm 2003, phải chăng còn cần nói đến New Age ? Phong trào văn hoá này ra đời ở Hoa Kỳ vào những năm 1960, nay phải chăng đã lỗi thời ? Một số người nghĩ như thế, nhưng chúng ta đừng lầm : nếu nhãn hiệu là thành viên của “New Age” thường bị nhiều người đương thời chối bai bải, thì vấn đề vẫn còn nguyên si đấy và lại còn “bám rể sâu” trong cảm tính tập thể. Nhiều cá nhân, tuy cứ “la toáng” lên là sao người ta lại kể họ vào số tín đồ của New Age, nhưng thực tế họ đã đồng hoá thâm sâu với New Age rồi. Những người ấy gắn chặt với những đề tài cơ bản : chờ đợi thiên niên, những chủ đạo dẫn dắt tâm trí, phát triển cá nhân, thượng tôn cái hoà đồng và nỗ lực nhằm mở rộng ý thức. Bốn mươi năm sau khi ra đời, New Age vẫn khoẻ mạnh. Chính vì thế, cần phải tiếp tục nói đến New Age.

Thứ Tư, 21 tháng 12, 2022

GIỚI THIỆU VĂN KIỆN TÒA THÁNH VỀ NEW AGE

Thời sự Thần học - Số 34, tháng 12/2003, tr.50-65. 

_Trung Nguyễn biên tập_ 


I. BÀI PHÁT BIỂU CỦA ĐỨC HỒNG Y PAUL POUPARD


1. Phong trào New Age đã được nói đến nhiều rồi, và sẽ còn được nói đến nhiều hơn nữa. Tôi đã từng xin chuyên gia Jean Vernette một mục cho “Các phong trào New Age” trong cuốn sách in lần thứ ba của tôi bằng tiếng Ý, Grande Dizionario delle Religioni (Từ điển giải thích các Tôn giáo). Trong mục này, ông miêu tả các phong trào này như sau : “Các phong trào New Age, tựa như một dòng sông cuồn cuộn chảy bắn tung toé những làn nước, là một hình thái đặc trưng của sự thức tỉnh tôn giáo hiện đại thành một lòng sùng đạo mới mang nhiều nét của “Ngộ đạo vĩnh cửu” (Piemme, 2000, p.1497-1498). Mới đây, một tờ báo Italia về văn hoá tôn giáo có tựa đề là Religioni e sette nel mondo (Các tôn giáo và Giáo phái trên thế giới, 1996, 1-2) mỗi quí ra một số, đã dành hẳn hai số đặc biệt để nói về Phong trào New Age. Còn trong cuốn sách của tôi, tôi trình bày hiện tượng này như sau : “Hiện tượng Phong trào New Age, cùng với nhiều phong trào tôn giáo khác là một trong những thách đố cấp bách nhất đối với Đức tin Ki-tô giáo. Đó là một thách đố tôn giáo nhưng cũng đồng thời là một thách đố văn hoá. Phong trào New Age đưa ra những lý thuyết và đạo lý liên can đến Thiên Chúa, con người và thế giới không dung hợp được với Đức tin Ki-tô giáo.

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2022

SUY TƯ VỀ PHONG TRÀO NEW AGE - THỜI ĐẠI MỚI

CÙNG ĐỌC QUA VĂN KIỆN TÒA THÁNH “ĐỨC GIÊSU KITÔ, ĐẤNG MANG ĐẾN NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG”

 Thời sự Thần học - Số 34, tháng 12/2003, tr. 18-49.

_Trung Nguyên 👨 

Bài này xin lược qua văn kiện “ĐỨC GIÊSU KITÔ, ĐẤNG MANG ĐẾN NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG” của Hội Đồng giáo hoàng đặc trách Văn hoá và của Hội Đồng giáo hoàng đặc trách Đối thoại liên tôn, được công bố ngày 3-2-2003. Văn kiện này dài khoảng 90 trang giấy, khổ A5, cỡ chữ 12, gồm 9 phần chính, cùng với phần nhập đề ở đầu và phần ghi chú ở cuối văn kiện.
TSTH xin mời bạn đọc cùng “rảo” qua văn kiện này với những phần trích dịch được chọn.

 Nhập đề


Văn kiện đã nhập đề như sau:

“Đây là một văn bản nghiên cứu hiện tượng phức tạp, tức là New Age, đang ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của nền văn hoá. Nhưng đây chỉ là một bản tường trình tạm, kết quả của suy nghĩ chung giữa các nhóm đang nghiên cứu về các Phong trào tôn giáo mới, gồm các thành viên của các Bộ trong Toà Thánh : các Hội đồng Giáo hoàng đặc trách Văn hoá và Đối thoại liên tôn (giữ vai trò chính yếu trong việc này), Bộ loan báo Tin Mừng cho các dân tộc và Hội đồng Giáo hoàng cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu.

Suy tư này trước hết gửi đến những người đang làm việc mục vụ, giúp hiểu Phong trào New Age khác với Đức tin Kitô giáo như thế nào, giúp người đọc để ý tới cách thế lòng đạo New Age tác động vào những con người hiện đại đang khao khát tâm linh như thế nào. Một phần có thể là do các cộng đoàn Kitô hữu thiếu chú ý nghiêm túc đối với những chủ đề đang là một phần của tổng hợp Công giáo, ví dụ như tầm quan trọng của chiều kích thiêng liêng của con người và việc hội nhập chiều kích ấy vào toàn thể cuộc đời, việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời, mối dây liên hệ giữa con người với phần còn lại của công trình sáng tạo, ao ước cho bản thân và xã hội biến đổi, loại bỏ cái nhìn duy lý cũng như duy vật về nhân loại.

Nghiên cứu này kêu gọi chú ý đến yêu cầu hiểu và biết New Age là một trào lưu văn hoá, cũng như kêu gọi người Công giáo cần phải am hiểu giáo lý Công giáo và linh đạo của mình nhiều hơn, đặng có thể đánh giá đúng các chủ đề của New Age. Hai chương đầu văn kiện trình bày New Age như là một khuynh hướng văn hoá đa diện, đưa ra một phân tích các nền tảng căn bản của tư tưởng được truyền đạt trong bối cảnh này. Từ chương ba trở đi là một số chỉ dẫn để tìm tòi New Age khi so sánh với sứ điệp Kitô giáo. Cũng sẽ có một vài gợi ý có tính chất mục vụ nữa.

Ai muốn tìm hiểu New Age sâu hơn, có thể dùng những qui chiếu ở phần Phụ trương. Hy vọng công trình này sẽ là một nhân tố kích thích nghiên cứu sâu hơn, thích hợp với mỗi bối cảnh văn hoá khác nhau. Mục đích của suy tư này cũng nhằm khích lệ sự phân định nơi những người đang chờ đợi những điểm qui chiếu lành mạnh để có thể có một đời sống sung mãn hơn. Vì thế, xác tín của chúng tôi là thông qua nhiều người đương thời với chúng ta đang nỗ lực tìm kiếm, chúng ta có thể khám phá ra đúng là có một sự khát khao Thiên Chúa. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ngỏ lời với nhóm các Giám mục Hoa Kỳ : “Các chủ chăn phải lương thiện và tự hỏi rằng mình đã quan tâm đủ cho cơn khát của trái tim con người muốn tìm được “nước sống” mà chỉ có Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, mới có thể ban tặng hay không?” (x. Ga 4,7-13). Tương tự như thế, chúng ta “cậy dựa vào nét tươi tắn vĩnh hằng của sứ điệp Tin Mừng và khả năng của Tin Mừng để biến đổi và canh tân những ai đón nhận” (AAS 86/4,330).
 

Phần 1: Xác định bối cảnh, hoàn cảnh, tương quan với thế giới hiện đại, với Kitô giáo


Theo các nhà thiên văn cho rằng Thời Song Ngư (chỉ thời đại của Kitô giáo-Pisces) đang chấm dứt và Thời Đại Mới, New Age, bắt đầu. Thời mới này gọi là Thời Bảo Bình (Aquarius).

Thời này, nhiều người phân vân giữa cái chắc chắn và cái không chắc chắn, nhất là những vấn đề liên can đến căn tính của mình.

Một số người cho rằng Kitô giáo là gia trưởng, là trịch thượng.

Các thể chế chính trị thì không có khả năng làm cho thế giới tốt hơn lên, phương tiện y tế hiện nay không thể chữa trị hiệu quả. Sự kiện những yếu tố từng là chủ lực trong xã hội nay bị coi là không đáng tin và thiếu uy tín.

Do đó, người ta thay đổi, hướng cái nhìn vào nội tâm, vào bản thân để truy tìm ý nghĩa và sức mạnh, cố gắng tìm các định chế thay thế (alternative institutions) với hy vọng đáp ứng được những nhu cầu thâm sâu nhất.

Đời sống không có tổ chức và hỗn độn của các cộng đồng thay thế (alternative communities) vào những năm 1970 mở đường cho việc tìm kiếm kỷ luật và tổ chức, rõ ràng nay là những yếu tố cơ bản trong phong trào “huyền bí” rất là phổ biến. New Age hấp dẫn vì nhiều cái nó đưa ra lại đáp ứng những con đói khát mà những thể chế cố định vững chãi không thoả mãn được.

Trong khi New Age là một phản ứng đối với văn hoá đương đại, thì có nhiều cách cho thấy chính New Age lại là con đẻ của nền văn hoá này. Thời Phục hưng và Cải cách đã hình thành nên cá nhân phương tây hiện đại, không chịu ràng buộc bởi quyền bính và truyền thống hoàn toàn ngoại tại. Người ta càng ngày càng cảm thấy ít cần “thuộc” về một cơ chế nào (và nỗi cô đơn hẳn là một bóng đen của đời sống hiện đại)

Vì hướng chiều về tôn thờ nhân loại, tôn giáo trở thành một cách thế chuẩn bị mảnh đất cho việc tôn vinh bản thân, bản thân trở thành thiêng thánh, bất khả xâm phạm. Thiên Chúa bị một số thực hành New Age nào đó giản lược vào sự tiến bộ của cá nhân.

New Age lôi cuốn những con người đang bị những giá trị của văn hoá hiện đại nhận chìm. Tự do, chân thực, tự tín và những gì giống như thế được coi là thiêng thánh. Nó “không đòi niềm tin hay tín ngưỡng gì hơn là đi xem xi-nê”, và như thế nó tự hào là thoả mãn được những ham muốn tinh thần của con người.

Các biến chuyển về truyền thông ít năm gần đây làm cho hoàn cảnh hoàn toàn mới. Thông tin dễ dàng và nhanh chóng là một trong những lý do tại sao New Age lại lôi cuốn được nhiều người thuộc mọi lứa tuổi và mọi nền văn hoá chú ý, rồi nhiều người theo Đức Kitô cũng không chắc chắn tất cả là cái gì nữa. Cách riêng Internet ảnh hưởng vô cùng rộng lớn nhất là với giới trẻ, họ thấy đó là cách lấy thông tin thích hợp và lôi cuốn. Nhưng đó cũng là phương tiện chuyển tải dễ dãi về nhiều phương diện của tôn giáo : không phải bất cứ cái gì mang nhãn hiệu là “Kitô giáo” hay “Công giáo” đều có thể tin được rằng đó là phản ánh giáo huấn của Hội thánh Công giáo và, đồng thời, lại có cả một lô những nguồn New Age từ nghiêm túc đến vui cười. Cần có thông tin đáng tin cậy về những dị biệt giữa Kitô giáo với New Age.

Nghiên cứu nhiều truyền thống New Age, thấy ngay là thực ra trong New Age có ít yếu tố mới. Danh xưng đã được lưu hành qua Rosicrucianism và Freemasonry, thời Cách mạng Pháp và Hoa Kỳ, nhưng trong thực tiễn nó lại cho thấy có những khác biệt của chủ nghĩa thần bí phương Tây. Có thể trở về những nhóm Ngộ đạo thời Kitô giáo sơ khai và được mạnh mẽ lên thời Cải cách ở châu Âu. Nó bao gồm một sự chối bỏ dần dần một Đấng Thiên Chúa hữu ngã và tập trung vào những thực thể thường được miêu tả như là những trung gian giữa Thiên Chúa với nhân loại trong Kitô giáo truyền thống, và càng ngày càng thích nghi thêm.

Một xu hướng mạnh trong văn hoá phương Tây dành vị trí cho những tư tưởng của New Age là chấp nhận tổng quát thuyết tiến hoá của Darwin. Hướng này, cùng với sự tập trung vào những năng lực tinh thần còn ẩn giấu hoặc những sức mạnh trong thiên nhiên, đã trở thành nét chính của nhiều cái nay được coi là lý thuyết về New Age. Về cơ bản, New Age đã có được mức độ chấp nhận đáng kể bởi vì quan điểm về thế giới của New Age được đón nhận rộng rãi. Mảnh đất đã được chuẩn bị do sự tăng trưởng và lan rộng của tương đối chủ nghĩa, kèm theo thái độ ác cảm hoặc dửng dưng với đức tin Kitô giáo.

Cũng có tranh luận mạnh mẽ về chuyện có thể miêu tả New Age như là hiện tượng của thời hậu hiện đại. Sự hiện hữu và nhiệt tình của tư tưởng cũng như thực hành New Age cho thấy cái ước muốn không thể dập tắt được của tinh thần con người là ao ước sự siêu việt và ý nghĩa tôn giáo, là điều không phải chỉ là hiện tượng văn hoá đương đại mà rõ ràng đã có từ trong thế giới cổ xưa, cả Kitô giáo lẫn ngoại giáo.

Cho rằng là lòng đạo New Age có đáp ứng được cách nào đó ao ước hợp lý của bản tính con người, thì cũng phải nhìn nhận rằng những cố gắng của nó như thế đi ngược với mạc khải Kitô giáo. Ở phương Tây, những lối tiếp cận linh đạo “alternative” rất thịnh. Đàng khác những hình thức mới khẳng định tâm lý của cá nhân trở thành rất phổ thông nơi những người công giáo, các nơi tĩnh tâm, các chủng viện và học viện các dòng tu. Đồng thời, càng ngày càng thấy gia tăng sự nhớ nhung và tò mò đối với minh triết và lễ nghi của thời xa xưa, đó là một trong những lý do giải thích sự lớn mạnh của thần bí và ngộ đạo trong đại chúng. Nhiều người còn bị cuốn hút bởi cái được gọi – đúng hoặc khác – là linh đạo “Celtic” hoặc những tôn giáo của những dân tộc cổ xưa. Sách vở, giảng khoá về linh đạo hay các tôn giáo phương Đông được quảng cáo rầm rộ, và thường mang nhãn hiệu “New Age” nhằm những mục đích thương mãi.

Cần phải nhận rằng có một cái gì đó giống như tổng hợp những lập trường mà Hội thánh đã coi là dị giáo, giống như hồi thế kỷ thứ hai và thứ ba. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã lên tiếng về vấn đề này. Một thí dụ được đưa ra là “enneagram” (Thuyết cửu loại hay là hành trình khám phá bản thân, nếu được dùng như là một phương thế giúp tăng trưởng về thiêng liêng có thể dẫn tới một sự lưỡng nghĩa trong giáo lý và việc sống đức tin Kitô giáo).

Sự thành công của New Age đưa tới một thách đố cho Hội thánh. Nhiều người cảm thấy Kitô giáo không – hoặc có thể chẳng bao giờ – đem tới cho họ cái họ thực sự đang cần. Và việc đi tìm kiếm thường dẫn người ta tới với New Age là một sự khao khát đặc biệt : để có một linh đạo sâu xa hơn, để tìm được một cái gì đó đụng chạm được tới trái tim của họ, và để tìm được một cách ý thức được về một cái thế giới hỗn độn và thường là vong thân. Có một nét tích cực trong những phê bình của New Age về “duy vật chủ nghĩa của đời sống thường nhật, của triết lý và cả y dược và phân tâm ; giản lược chủ nghĩa, không chịu lưu tâm đến những kinh nghiệm tôn giáo và siêu nhiên ; văn hoá kỹ thuật của cá nhân chủ nghĩa vô giới hạn dạy ích kỷ và không chú ý đến những người khác, đến tương lai và môi trường. Nếu như Hội thánh không bị tố cáo là đã giả điếc làm ngơ đối với những khát vọng của con người, thì các phần tử của Hội thánh cần thực hiện hai điều : chính bản thân mình phải càng ngày càng chắc chắn hơn trong những nền tảng của đức tin, và phải am hiểu tiếng kêu thường là thinh lặng của trái tim con người, dẫn họ tới một nơi nào đó nếu như họ không được Hội thánh thoả mãn. Cũng có một lời kêu gọi tới gần Đức Giêsu Kitô hơn nữa và sẵn sàng đi theo Người, vì Người là con đường đưa đến hạnh phúc, sự thật về Thiên Chúa và sự sung mãn của đời sống cho mỗi người nam nữ sẵn sàng đáp lại tình yêu của Người.
 

Phần 2 : Về linh đạo New Age


Các Kitô hữu trong các xã hội phương Tây và càng ngày càng ở những nơi khác trên thế giới thường xuyên giáp mặt với những phương diện khác nhau của hiện tượng gọi là New Age. Nhiều người muốn biết rõ cái hiện tượng vừa lôi cuốn, vừa phức tạp, vừa co dãn lại vừa đảo lộn này thế nào. Những suy tư ở đây sẽ giúp các Kitô hữu hai điều :
  • Nhận ra những yếu tố trong việc phát triển truyền thống New Age ;
  • Chỉ cho thấy những yếu tố nào không tương hợp được với mạc khải Kitô giáo.
New Age không phải là Phong trào đúng nghĩa, cũng không phải là “cult”, là “giáo phái”, vì lan truyền qua các nền văn hoá, trong các hiện tượng như âm nhạc, phim ảnh, hội thảo, hội nghị, tĩnh tâm, các thứ trị liệu và nhiều hoạt động cũng như biến cố, cho nên phổ biến hơn và không chính thức hơn, dù có một số nhóm tôn giáo hoặc bán tôn giáo chủ ý nhận những yếu tố của New Age. New Age còn là nguồn mạch cho nhiều giáo phái.

Cũng không phải là phong trào đơn độc, nhất thể mà là một mạng lưới lỏng lẻo những hành giả, theo phương châm suy nghĩ toàn cầu, hành động địa phương (think globally but act locally). Những người trong mạng lưới này không cần biết nhau và hiếm, thậm chí không bao giờ, gặp nhau. Để tránh lẫn lộn có thể có do việc dùng từ “Phong trào”, một số muốn coi New Age là một “cảnh vực”, hay một “audience cult” (tín-ngưỡng-thính-thị).

Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng “đây là một dòng tư tưởng rất mạnh”, một thách đố chủ ý đối với nền văn hoá hiện đại. Đây là một cơ cấu tổng hợp (syncretistic) thu thập nhiều yếu tố khác nhau, giúp con người chia sẻ những quan tâm hoặc những liên kết với những mức độ khác nhau và trên những bình diện dấn thân khác nhau. Có thể hiểu New Age theo nghĩa đó là phong trào xã hội rộng lớn, tựa như Phong trào Quyền Dân Sự, Phong trào Hoà Bình : lực lượng những người ở khắp nơi liên kết với những mục đích chính của Phong trào, nhưng rất khác nhau trong đường lối dấn thân thực hiện và cách hiểu những vấn đề riêng.

Cách gọi “tôn giáo New Age” còn gặp nhiều tranh cãi hơn, dầu New Age thường là câu trả lời cho những nhu cầu và những vấn đề của con người, cũng như mời con người khám phá hoặc tái khám phá chiều kích tâm linh trong cuộc đời họ. Tránh dùng cách gọi “tôn giáo New Age” không hề có ý chất vấn tính cách đặc biệt của việc con người đi tìm ý nghĩa và ý thức về đời sống. Nó tôn trọng sự kiện là nhiều người ngay trong New Age phân biệt cẩn thận “tôn giáo” với “linh đạo”. Nhiều người bác bỏ tôn giáo có tổ chức, vì theo phán đoán của họ tôn giáo như thế không giải đáp được những nhu cầu của họ, và chính vì lẽ này mà họ đi chỗ khác để tìm “linh đạo”.

Hơn nữa, ở trung tâm điểm của New Age là niềm tin cho rằng thời của các tôn giáo này tôn giáo kia đã kết thúc, nên cho mình là tôn giáo tức là đi ngược lại với chính suy nghĩ của mình. Tuy nhiên, thật là xác đáng khi đặt New Age vào bối cảnh rộng của tính tôn giáo bí truyền, tính cách này đang gia tăng.

Có một vấn đề khiến cho có văn kiện này, đó là một cố gắng hiểu và đánh giá một cái gì đó căn bản là sự tôn dương kinh nghiệm phong phú nơi con người.

Những chủ đề chính của New Age:


New Age không phải là một tôn giáo, nhưng lại chú ý nhiều vào cái gọi là “thần thiêng” (divine). Cốt lõi của New Age là một sự kết hợp lỏng lẻo nhiều sinh hoạt, tư tưởng và con người khác nhau. Vì thế không có một mạch lạc duy nhất giống như giáo lý của những tôn giáo lớn hiện hành. Dù thế và dù trong chính New Age cũng có nhiều khác biệt, vẫn có những điểm chung :
  • Vũ trụ được coi như một toàn thể hữu cơ
  • Được sống động nhờ một Năng Lực, cũng gọi được là Hồn hoặc Thần thiêng
  • Tin vào sự trung gian của nhiều thực thể tinh thần khác nhau
  • Con người có khả năng vươn lên tới những lãnh vực vô hình cao hơn và kiểm soát được cuộc đời mình vượt qua cả bên kia cái chết nữa
  • Dính dáng tới một “tri thức vĩnh cửu” có trước từ lâu và vượt lên trên mọi tôn giáo và văn hoá
  • Con người ta phải đi theo những vị thầy đã được khải đạo.

Về con người:


New Age tin rằng nơi con người có một khả năng nên hoàn hảo nhờ vào nhiều những kỹ thuật và phương pháp trị liệu khác nhau (ngược với cái nhìn của Kitô giáo là tin tưởng vào sự cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa). Ở đây chung chung có một sự thoả thuận với tư tưởng của Nietzsche cho rằng Kitô giáo cản trở sự bộc lộ trọn vẹn của nhân tính đích thực. Theo quan điểm này, hoàn hảo có nghĩa là hoàn thành việc thể hiện bản thân mình, làm cho bản thân mình hoàn hảo, theo một thang giá trị do chính bản thân chúng ta tạo ra và cũng hoàn tất dựa vào sức riêng của chúng ta mà thôi : thế cho nên người ta có thể nói đến chuyện tự sáng tạo bản thân mình. Theo cái nhìn như thế, con người như họ bây giờ đang là khác con người như họ sẽ là khi họ đã thể hiện hết tiềm năng của mình không giống như con người với con vượn.

Các kỹ thuật mở rộng tâm trí nhằm để tỏ lộ cho con người thấy năng lực thần thiêng của họ, nhờ sử dụng năng lực này, con người ta chuẩn bị con đường để đến Thời Đại Ánh Sáng. Việc tôn dương con người như thế đảo lộn mối tương quan đúng đắn giữa Đấng Sáng Tạo với thọ tạo, và một trong những thái cực là Satan chủ nghĩa. Satan trở thành biểu tưởng của sự bạo loạn chống lại những qui ước và qui tắc luật lệ, một biểu tượng thường là gây hấn, ích kỷ và những hình thức bạo lực. Một vài nhóm Tin Mừng đã nói thẳng ra mình quan tâm đến sự hiện diện ngầm bên dưới của cái họ gọi là biểu tượng chủ nghĩa Satan ở một số hình thức nhạc rock, ảnh hưởng mạnh vào giới trẻ. Chuyện này còn rất xa sứ điệp bình an và hài hoà tìm thấy trong Tân ước. Thường đó là một trong những hệ quả của việc tôn dương con người, khi việc tôn dương như thế lại bao gồm việc chối bỏ vị Thiên Chúa siêu việt.

Nhưng đó không phải chỉ là cái gì ảnh hưởng vào giới trẻ. Những chủ đề chính của văn hoá bí truyền cũng còn có mặt trong một số thực thể chính trị, giáo dục và luật pháp nữa. Nhất là trong trường hợp có liên can đến vấn đề môi trường. Việc vấn đề môi trường sâu xa nhấn mạnh đến duy sinh thái (biocentrism) chối bỏ cái nhìn nhân học của Kinh thánh, theo đó con người ở trung tâm điểm của thế giới, vì thế được coi là cao về mặt phẩm hơn các hình thức tự nhiên khác. Nó nổi rõ hẳn lên trong luật pháp và giáo dục ngày nay, bất kể sự kiện là nó xem thường nhân tính bằng đường lối này… Cũng chính ma trận văn hoá huyền bí có thể được nhận diện trong các lý thuyết có tính cách ý thức hệ nằm ở bên dưới các chính sách kiểm soát dân số và thử nghiệm kỹ thuật gen, ra như là diễn tả ước mơ của con người là làm sao lại sáng tạo bản thân mình nữa. Làm thế thì người ta hy vọng cái gì khi giải mã được gen, đổi được những qui luật tự nhiên của giới tính, thách thức những giới hạn của cái chết.

Theo hướng đi của New Age kinh điển, thì con người sinh ra mang theo một tia lửa thiêng. Theo nghĩa nào đó, đây là hoài niệm của một thứ chủ nghĩa ngộ đạo cổ xưa. Tia lửa này nối con người với sự thống nhất của Toàn Thể. Vì thế, cơ bản con người được coi là thần thiêng, cho dù họ tham gia vào sự thần thiêng vũ trụ này ở nhiều cấp độ khác nhau của ý thức. Chúng ta là những người đồng-sáng-tạo, và chúng ta sáng tạo chính thực tại của chúng ta. Nhiều tác giả New Age chủ trương rằng chúng ta chọn những hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta (thậm chí cả bệnh tật và sức khoẻ của chúng ta nữa), trong cái nhìn ở đó mỗi cá nhân được coi như là nguồn mạch sáng tạo của vũ trụ. Nhưng chúng ta cần thực hiện một cuộc hành trình để hiểu chúng ta hợp với sự thống nhất của vũ trụ ở chỗ nào. Cuộc hành trình là tâm trị liệu và sự nhận biết ý thức vũ trụ là sự cứu độ. Không hề có tội lỗi, chỉ có tri thức không hoàn hảo mà thôi. Căn tính của mỗi cá nhân con người bị tan loãng trong hữu thể vũ trụ và tiến trình nhập thể liên tục (luân hồi) này.

Con người phải suy phục những ảnh hưởng tất định của các vì sao, nhưng có thể mở ra đến tận thần thiêng đang sống ngay bên trong mình, trong nỗ lực tìm kiếm không ngừng của mình (bằng những kỹ thuật thích hợp) để đạt tới một sự hài hoà mỗi ngày mỗi lớn hơn giữa bản thân mình với năng lực vũ trụ. Không cần Mạc khải hoặc Sự Cứu Độ là những gì đến từ bên ngoài con người, nhưng chỉ cần cảm nghiệm ơn cứu độ đang được giấu ẩn bên trong con người mình (tự cứu độ), bằng cách làm chủ các kỹ thuật tâm-vật lý là những cái đưa đến chỗ khải sáng hoàn toàn.

Một vài bậc trên con đường tự cứu chuộc có tính cách chuẩn bị (suy niệm, hài hoà thân thể, các năng lực tự chẩn trị bằng cách thư giãn). Đấy là điểm khởi hành cho tiến trình tâm linh hoá, hoàn hảo và khải sáng giúp con người tự kiểm soát xa hơn và tập trung tinh thần vào “sự biến đổi” cá thể mình thành “ý thức vũ trụ”. Vận mệnh của con người là một chuỗi những tái nhập của linh hồn vào những thân thể khác nhau. Đây không hiểu như là vòng luân hồi (samsara), theo nghĩa là thanh tẩy trừng phạt, nhưng như là một hướng đi lên dần dần tới chỗ phát triển hoàn hảo tiềm năng của mình.

Tâm lý được dùng để giải thích sự mở rộng tâm trí như là những kinh nghiệm “thần bí”, Yoga, Zen, suy niệm siêu vời và những tập luyện của giới thần bí Hindu hay Phật giáo (tantric exercises) dẫn đến một kinh nghiệm hoàn thành bản thân hoặc khải sáng. Những kinh nghiệm hồng (sống lại sự ra đời của mình, chu du qua các cổng của tử thần, biofeedback, khiêu vũ và cả ma tuý – bất cứ thứ gì có thể khơi lên một tình trạng ý thức được nâng cao lên) đều được người ta tin là dẫn tới sự thống nhất và khải sáng. Vì chỉ có một Trí Tuệ duy nhất, cho nên một số người có thể là kênh (channels) để đạt tới những hữu thể cao hơn. Mỗi phần của hữu thể vũ trụ độc nhất này đều có liên lạc với mỗi phần khác. Lối tiếp cận cổ điển trong New Age là tâm lý chuyển ngã (transpersonel), những quan niệm chính của nó là Trí Tuệ Vũ Trụ, Ngã Cao Cả, vô thức tập thể và cá nhân và chính cái tôi cá thể nữa. Ngã Cao Cả là căn tính đích thực của chúng ta, là chiếc cầu nối giữa Thiên Chúa tức là Trí Tuệ thần thiêng với nhân loại. Phát triển tâm linh là liên lạc với Ngã Cao Cả, tức là thực tại vượt lên trên mọi hình thức nhị nguyên giữa chủ thể và đối tượng, sống và chết, tâm linh và thể xác, cái ngã và những phương diện vụn vặt của cái ngã. Nhân cách giới hạn của chúng ta giống như cái bóng của một giấc mơ do cái ngã đích thực của chúng ta sáng tạo nên. Ngã Cao Cả gồm chứa những ký ức của những lần tái nhập (luân hồi) trước.

Về Thiên Chúa


New Age chuộng các tôn giáo phương Đông hoặc tiền-Kitô-giáo hơn, bởi lẽ những tôn giáo này được coi như là không bị lây nhiễm bởi những bóp méo của Do thái Kitô giáo. Cho nên những nghi lễ đồng áng cổ và những kiểu thờ kính sinh sản rất được trọng. “Gaia”, Mẹ Đất, được coi là một thay thế cho Thiên Chúa là Cha, hình ảnh Thiên Chúa là Cha bị coi như có liên hệ với quan niệm phụ quyền, giới nam thống trị giới nữ. Có nói đến Thiên Chúa, nhưng không phải là Thiên Chúa hữu ngã.

Thiên Chúa được New Age nói đến không hữu ngã mà cũng chẳng siêu việt. Cũng chẳng phải là Đấng Sáng Tạo và đỡ nâng vũ trụ, nhưng là một “năng lực vô ngã” nội tại trong thế giới, nhờ năng lực ấy mà “sự thống nhất vũ trụ” hình thành : “Tất cả là một”. Sự thống nhất này có tính cách nhất nguyên, phiếm thần. Thiên Chúa là “nguyên lý-sống”, là “thần trí hoặc hồn của thế giới”, là tổng số của ý thức đang hiện hữu trong thế giới. Hiểu theo một nghĩa thì cái gì cũng là Thiên Chúa.

Khi được người nam người nữ đón nhận một cách có ý thức, “năng lực thiên linh” thường được miêu tả là “năng lực Kitô”. Thế là Đức Kitô cũng được nói đến, nhưng không có ý chỉ Đức Giêsu Nadarét. “Kitô” là một tước hiệu áp dụng cho một số người đã đạt tới được tình trạng ý thức, ở đó người ấy nhận thức được mình hoặc chính mình là thần linh và vì thế có thể xưng mình là “Thầy vũ trụ”. Đức Giêsu Nadarét không phải là Chúa Kitô [lịch sử], nhưng chỉ là một trong số nhiều dung mạo lịch sử trong đó bản tính “Kitô” này được biểu lộ, chẳng hạn như trường hợp Đức Phật và những vị khác nữa. Mỗi một sự thực hiện có tính cách lịch sử Đức Kitô này tỏ cho thấy rõ rằng mọi hữu thể nhân linh đều là thiên nhân và thần nhân.

Về thế giới


Chuyển động từ một kiểu cơ học của vật lý cổ điển sang một “toàn thể” (holistic) vật lý nguyên tử và hạ nguyên tử, đặt căn bản trên quan niệm vật chất tựa như những làn sóng năng lực hơn là những hạt nhân, là trọng tâm cho nhiều tư tưởng New Age.

Vũ trụ là một biển năng lực, một toàn thể độc nhất hay một mạng lưới các dây nối. Năng lực làm cho cơ quan duy nhất này tức là vũ trụ sinh động là “tinh thần”. Không có sự thay đổi (alterity) giữa Thiên Chúa với thế giới. Thế giới tự nó là thần thiêng và trải qua một tiến trình biến hoá đi từ vật chất vô tri đến “ý thức cao hơn và hoàn hảo”. Thế giới không do sáng tạo mà có, nhưng vĩnh cửu và tự đầy đủ. Tương lai của thế giới đặt nền tảng trên một sức năng động nội tại nhất thiết là tích cực và đi đến một thể thống nhất hài hoà (thần thiêng) bao gồm mọi sự đang hiện hữu. Thiên Chúa và thế giới, hồn và xác, trí khôn và tình cảm, trời và đất là một rung động bao la của năng lực.

Cuốn sách của James Lovelock về Giả thuyết Gaia tuyên bố rằng “toàn thể hàng vật chất có sinh hồn trên mặt đất, từ con cá voi đến con ký sinh trùng, từ cây lúa đến cây tảo, đều có thể được coi như là làm thành một đơn vị sống độc nhất, có khả năng chi phối khí quyển của Trái Đất… Đối với một số người, giả thuyết Gaia là “một tổng hợp lạ thường cá nhân chủ nghĩa và tập thể chủ nghĩa. Tất cả những cái đó ra như thể New Age, khi kéo con người ra khỏi những chính sách vụn vặt, không thể chờ đợi ném con người vào cái vạc lớn là tâm trí toàn cầu”. Bộ não toàn cầu cần những định chế để thống trị, nói bằng nhũng từ khác, một điều hành thế giới.

“Trước những vấn đề của thời nay, New Age mơ về một thứ quí tộc tinh thần theo kiểu Republic của Plato, tiến hành nhờ những xã hội bí mật…” Đây có thể là một cách xác định phóng đại, nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng chiết trung ngộ đạo và điều phối toàn cầu trùng hợp nhau về nhiều vấn đề trong phạm vi chính trị quốc tế.

Bất cứ cái gì trong vũ trụ cũng có tương quan với nhau, thực ra mỗi một thành phần tự nó là một hình ảnh của toàn thể, toàn thể ở trong mỗi một vật và mỗi một vật ở trong toàn thể. Trong “chuỗi to lớn hữu thể”, mọi hữu thể được nối kết sâu xa với nhau và làm thành một gia đình với những cấp độ tiến hoá khác nhau. Mỗi một con người là một hologram, hình ảnh của toàn thể tạo thành, trong đó mỗi vật rung động theo tần số của riêng mình. Mỗi một hữu thể là một nơ-ron trong hệ thần kinh trung ương của trái đất, và mọi đơn vị cá nhân đều ở trong mối tương quan bổ trợ với những đơn vị cá nhân khác. Thực ra, có một sự bổ trợ nội tại hoặc ái nam ái nữ trong toàn thể tạo thành”.

Một trong những chủ đề năng được các tác phẩm và tư tưởng New Age nhắc đi nhắc lại là “khuôn mẫu mới” khoa học đương thời đã mở ra. “Khoa học đã cho chúng ta những cái nhìn thấu suốt vào trong toàn thể và các hệ thống, nhấn mạnh và biến đổi. Chúng ta đang học đọc các khuynh hướng, nhận ra những dấu chỉ trước đây của khuôn mẫu khác, hứa hẹn hơn. Chúng ta sáng tạo những khung cảnh thay thế của tương lại. Chúng ta thông tri về những thất bại của các hệ thống cũ, tạo ra những khung mới cho cách giải quyết các khó khăn trong mỗi một lãnh vực”. Đến đó, “mẫu khung” là một sự thay đổi viễn tượng hoàn toàn, nhưng không còn gì hơn nữa. Vấn đề là tư tưởng và thay đổi thực sự là có tương xứng hay không và có thể chứng minh hữu hiệu có sự biến đổi nội tại trong thế giới ngoại tại này như thế nào. Ta buộc phải thắc mắc, ngay cả khi không diễn tả ra một phán đoán tiêu cực, một tiến trình tư tưởng có thể có tính cách khoa học như thế nào khi nó lại bao gồm những xác quyết như : “Không thể nghĩ được là có chiến tranh là trong một xã hội gồm những con người tự lập đã khám phá ra sự liên hệ của toàn thể nhân loại, sợ những tư tưởng xa lạ và những nền văn hoá xa lạ, biết rằng mọi cuộc cách mạng đều bắt đầu từ bên trong và bạn không thể đặt dấu vết của khải sáng trên một ai khác”. Quả là không hợp lý khi kết luận từ sự kiện là có một cái gì đó không thể nghĩ được mà lại không thể xảy ra. Lý luận như thế thật là có tính cách ngộ đạo, theo nghĩa là dành nhiều năng lực cho tri thức và ý thức. Không thể chối bỏ vai trò nền tảng và quan trọng của việc khai triển ý thức trong sự khám phá khoa học và phát triển có sáng tạo, nhưng chỉ chú ý cẩn thận để đừng áp đặt trên thực tiễn ngoại tại cái vẫn chỉ còn là trong tâm trí.

Phần 3: Linh đạo New Age và Linh đạo Kitô Giáo


New Age xét như là linh đạo: Những người cổ võ New Age thường cho đây là “linh đạo mới”. Nhưng có gì là mới khi trong đó có nhiều tư tưởng lấy lại của những tôn giáo và nền văn hoá cổ xưa. Cái thực sự mới đó là New Age là một sự tìm kiếm có ý thức một cái thay thế cho văn hoá phương Tây và gốc rễ Do-thái Kitô giáo của văn hoá ấy. “Linh đạo” theo đường này là kinh nghiệm bên trong về sự hài hoà và thống nhất với toàn thể thực tại, chữa lành tình cảm, sự giới hạn và bất toàn của mỗi con người. Cần khám phá ra mối liên lạc với sức mạnh vũ trụ thánh thiêng hay năng lực là hạt nhân của toàn thể đời sống. Khám phá được tức là ở trên đường đi tới sự hoàn hảo, không thể làm cho họ mất đi đời sống của mình và mối liên hệ với thế giới, và cho họ vị trí trong tiến trình vũ trụ để hoàn thành và trong sự Khai Sinh Mới của một thế giới đang không ngừng biến chuyển. Kết cuộc là một thứ thần bí vũ trụ, đặt căn bản trên ý thức của con người về một vũ trụ đang nảy nở với những năng lực năng động. Như thế, năng lực vũ trụ, rung động, ánh sáng, Thiên Chúa, tình yêu – thậm chí cả cái Ngã tối cao – tất cả đều đưa về một thực tại, nguồn mạch nguyên khởi trong mỗi hữu thể.

Thần bí Kitô giáo và thần bí New Age: Đối với người Kitô hữu, đời sống thiêng liêng là mối tương quan với Thiên Chúa. Mối tương quan này càng ngày càng sâu xa hơn thông qua ân sủng, và trong tiến trình này, mối tương quan ấy cũng toả sáng trên mối tương quan của chúng ta với những người anh chị em của chúng ta, và với vũ trụ nữa. Linh đạo theo từ ngữ New Age có nghĩa là cảm nghiệm những tình trạng của ý thức được chưởng trị do cảm thức về sự hài hoà và chan hoà với Toàn Thể. Vì thế, “thần bí” không đưa về việc gập gỡ Thiên Chúa siêu việt trong sự sung mãn của lòng mến, nhưng về kinh nghiệm sản sinh bởi việc quay về gặp gỡ chính mình, một cảm thức vui tươi phấn khởi của hữu thể được là một với vũ trụ, một cảm thức để cho cá nhân mình chìm ngập trong đại dương bao la của Hữu Thể.

Phân biệt nền tảng này trở thành rõ rệt ở mọi cấp độ giữa thần bí Kitô giáo với thần bí New Age. Con đường thanh tẩy của New Age đặt trên sự ý thức về sự bất ổn và vong thân, ý thức này phải được chế ngự nhờ việc dìm sâu vào trong Toàn Thể. Để có thể quay trở về, con người ta phải sử dụng những kỹ thuật dẫn đến kinh nghiệm của sự sáng soi. Kinh nghiệm này biến đổi ý thức con người và mở con người đến chỗ liên lạc được với thần linh, thần linh được hiểu là cái cốt lõi sâu sa nhất của thực tại.

Các kỹ thuật và phương pháp của hệ thống tôn giáo nội tại này, một hệ thống không quan niệm Thiên Chúa như là một ngôi vị, tiến hành “từ bên dưới”. Cho dù những kỹ thuật và phương pháp đó bao gồm sự đi xuống tới những chiều sâu thẳm của tâm hồn hay linh hồn con người, chúng vẫn cơ bản là công trình về phía một con người đang tìm cách vươn tới thần linh bằng những sức lực của riêng bản thân mình. Đó thường là một sự đi lên trên cấp độ ý thức tiến tới cái được coi như là ý thức giải phóng của “cái thần bên trong”. Mà không phải ai cũng tiếp cận được những kỹ thuật này, những người được hưởng nhờ những kỹ thuật phương pháp này được giới hạn vào một số “quí tộc” được ưu tiên về tâm linh.

Trong khi đó yếu tố chủ đạo trong đức tin Kitô giáo là việc Thiên Chúa đi xuống, đến với các thụ tạo của Người, cách riêng đến với những người khiêm hạ nghèo khó nhất, những người yếu đuối nhất và ít được ưu đãi theo những giá trị của “trần gian” này. Cũng có những kỹ thuật liên can đến đời sống thiêng liêng biết thì ích lợi, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể bỏ qua hoặc hành động mà không cần tất cả những kỹ thuật ấy. Một phương pháp của người Kitô hữu để tiến tới gần Thiên Chúa hơn không đặt căn bản trên bất cứ một kỹ thuật nào, hiểu sát nghĩa của từ này. Đó có thể mâu thuẫn với tinh thần thơ ấu được Tin Mừng công bố. Trọng tâm của thần bí Kitô giáo chân thực không phải là kỹ thuật : đó là một quà tặng, một hồng ân của Thiên Chúa, và người lãnh nhận vẫn biết mình là bất xứng, là không đáng.

Đối với người Kitô hữu, hoán cải là trở về với Chúa Cha, qua Chúa Con, trong tinh thần vâng phục quyền năng Chúa Thánh Thần. Con người ta càng tiến tới trong mối tương quan với Thiên Chúa – mối tương quan dù cách nào đi nữa thì vẫn cứ là một quà tặng, một hồng ân nhưng không. Tự do – thì càng cảm thấy sâu sắc nhu cầu phải bỏ tội lỗi, spiritual miopia và self-infatuation, tất cả những cái đó ngăn trở không cho con người trao phó bản thân mình cho Thiên Chúa và mở rộng đón nhận anh chị em mình.

Mọi kỹ thuật suy niệm cần phải được thanh luyện cho khỏi tự phụ kiêu căng tự hào. Cầu nguyện của Kitô giáo không phải là một sự thao dượt để chiêm ngắm bản thâm mình, để được tĩnh lặng thanh thản và làm cho mình trống rỗng, nhưng là cuộc đối thoại của lòng mến, một cuộc đối thoại “bao hàm một thái độ hoán cải, một sự bay lên từ cái “tôi” của mình đến cái “Ngài” của Thiên Chúa. Nó dẫn đễn một sự trao dâng càng ngày càng đầy đủ trọn vẹn cho thánh ý Thiên Chúa, và do đó chúng ta được mới gọi đi tới chỗ liên đới sâu xa, chân thực với anh em chị em chúng ta.

Phần 4 : New Age và đức tin Kitô giáo tương phản nhau


Khó tách từng yếu tố trong lòng đạo New Age – mỗi yếu tố riêng ra như là vô hại – khỏi cái khung tổng quát để nhận định. Bản chất ngộ đạo của phong trào này đòi chúng ta nhận định nó trong tổng thể. Theo quan điểm Kitô giáo, không thể tách rời một số yếu tố trong lòng đạo của New Age và cho là các Kitô hữu có thể chấp nhận những yếu tố ấy, bỏ đi những yế tố khác. Vì phong trào New Age để ý nhiều đến việc thông giao với thiên nhiên, đến tri thức vũ trụ của điều thiện vũ trụ – do đó chối bỏ nội dung mạc khải của đức tin Kitô giáo – cho nên không thể coi đó là tích cực hoặc vô thưởng vô phạt. Trong việc cổ võ môi trường có tính cách văn hoá, mang đậm dấu ấn của tương đối chủ nghĩa tôn giáo, cần nêu lên một lời cảnh giác đối lại với cố gắng đem lòng đạo New Age đặt trên cùng một bình diện với đức tin Kitô giáo, tức là làm cho sự khác biệt giữa đức tin với tín ngưỡng hoá ra tương đối, và vì thế tạo nên sự hỗn độn lớn hơn chỉ vì không thận trọng. Theo hướng này, tốt hơn là nhắc lại lời khuyên của thánh Phaolô “dạy cho một vài người không được dạy giáo lý sai lạc hay mải mê với những thần thoại và gia phả vô hồi kỳ trận, chỉ tổ cổ súy những lý thuyết hơn là kế hoạch của Thiên Chúa, kế hoạch cần phải đón nhận bằng đức tin” (1Tm 1,3-4). Một vài cách thực hành mang nhãn hiệu New Age không đúng chỉ là một sách lược tiếp thị để làm cho những lối thực hành ấy đắt hàng hơn, nhưng thực ra không thuộc về thế giới New Age. Vấn đề chỉ thêm rối. Vì thế cần xác định rõ ràng những yếu tố nào thuộc về Phong trào New Age, và những yếu tố nào là không thể chấp nhận đối với những người trung thành với Chúa Kitô và với Hội thánh của Người.

Những vấn đề dưới đây có thể là bí quyết dễ nhất để đánh giá một vài yếu tố chủ đạo của tư tưởng và cách thực hành của New Age, theo cái nhìn Kitô giáo. New Age liên can đến những ý tưởng về Thiên Chúa, con người và thế giới, những con người mà các Kitô hữu phải đối thoại về những vấn đề tôn giáo, gặp gỡ trong các nhóm suy niệm, các phương pháp trị liệu, những quả quyết minh nhiên về tôn giáo, vân vân. Một số trong những vấn đề này được áp dụng cho những người và những ý tưởng không minh nhiên mang nhãn hiệu New Age nhưng có thể cho thấy xa hơn nữa những mối liên lạc không thể đặt tên không nhận ra được với tổng thể bầu khí New Age.
  • Phải chăng Thiên Chúa là hữu thể chúng ta cần tương quan với Người hoặc Người là một cái gì đó chúng ta có thể sử dụng hoặc là một sức mạnh để chúng ta chinh phục ?
  • Có một Đức Giêsu Kitô hay có cả ngàn Kitô ?
  • Đức Giêsu lịch sử và cá biệt khác với Kitô vĩnh cửu, vô ngã của vũ trụ.
  • Chúng ta phải cố gắng chối bỏ tội hay chúng ta phải chấp nhận nó là như thế ?
  • Chúng ta được khích lệ vứt bỏ hay chấp nhận đau khổ và cái chết ?
  • Dấn thân xã hội là cái gì đó cần phải tránh hay phải tích cực để ý tới ?
  • Tương lai của chúng ta ở trong các vì sao hay chúng ta phải góp phần xây dựng ?

Phần 5: Đức Giêsu Kitô ban tặng chúng ta Nước Hằng Sống


Nền tảng duy nhất của Hội thánh là Đức Giêsu Kitô. Người là Đức Chúa của Hội thánh. Người ngự giữa trung tâm của mọi hoạt động và sứ điệp Kitô giáo. Như thế Hội thánh luôn phải trở lại để gặp gỡ Đức Chúa của mình. Tin Mừng nói về nhiều cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, từ Bethlem với các trẻ chăn cừu tới thập giá với hai tên trộm, từ những nhà thông thái lắng nghe lời Người tại đền thờ Giêrusalem tới các môn đệ đau khổ trên đướng Emmau. Nhưng nhất là câu chuyện cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacop trong chương 4 Tin Mừng thánh Gioan, đó là một cuộc gặp gỡ “tiêu biểu cho cuộc dấn thân đi tìm chân lý”. Nước hằng sống chính là chìa khóa để mở ra cuộc dấn thân đối thoại Kitô giáo với bất cứ ai chưa nhận biết Đức Giêsu.

Trong cuộc gặp gỡ này, người phụ nữ đã bị mê hoặc bởi chính sứ điệp của “người la mặt kia”, điều khiến bà lưu lại và lắng nghe. Sau khi bà bị bất ngờ với những lời lẽ của Đức Giêsu về chính cuộc đời bà, bà đã mở miệng thốt lên :”Tôi nhận thấy ông là một ngôn sứ” (c.19). Sau đó là một cuộc đối thoại về việc tôn thờ Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chạm đến tâm hồn người phụ nữ và chuẩn bị bà lắng nghe những gì Người muốn nói.

Câu chuyện diễn ra bên bờ giếng thật có ý nghĩa. Đức Giêsu ban tặng cho người phụ nữ “nguồn suối sự sống vĩnh cửu” (c.14). Cuộc đối thoại thực là một kiểu mẫu cho mục vụ Kitô giáo hữu hiệu : Giúp người khác đạt đến chân lý không phải khổ nhọc qua tiến trình tự nhận ra bản thân mình (“Ông ấy đã nói với tôi mọi điều tôi đã làm” c.39). Tiến trình này sẽ mang lại hoa trái phong phú vì con người bị lôi kéo tới Đấng mang nước (Aquarius), miễn là họ chuyên tâm tìm kiếm chân lý. Họ được mời gọi để lắng nghe Đức Giêsu, Đấng không chỉ thỏa mãn cơn đói khát hiện tại, nhưng còn cho họ nguồn nước hằng sống tâm linh sâu thẳm dấu ẩn. Điều quan trọng là cần thành tâm tìm kiếm chân lý và kiên trì.

Lời mời gọi gặp gỡ Đức Giêsu, Đấng mang đến nguồn nước sự sống trở nên có ý nghĩa khi Con Người thực sự chắc chắn rằng chính Người là Đấng Cứu độ thế giới

Phần 6: Những điểm cần lưu ý


Vài gợi ý thực hành trong mục vụ: Không phải bất cứ ai, bất cứ cái gì ở trong tầm rộng lớn của New Age đều có liên hệ với những lý thuyết của phong trào này theo cùng một cách thế như nhau. Chính nhãn hiệu này cũng thường bị áp dụng sai hoặc mở rộng tới các hiện tượng có thể xếp loại theo những cách khác. Từ New Age còn bị lạm dụng để phỉ báng những con người và những cách thực hành. Điều quan trọng là phải xem những hiện tượng đi liền với phong trào này, cho dù là lỏng lẻo, có phản ánh hay xung khắc với cái nhìn của Kitô giáo về Thiên Chúa, về con người và thế giới hay không. Chỉ thuần túy dùng thuật ngữ New Age thì ít có nghĩa lý nếu không muốn nói là chả có nghĩa gì.

Hội thánh công giáo cũng có những mạng lưới (networks) hữu hiệu có thể sử dụng. Chẳng hạn biết bao nhiêu những trung tâm mục vụ, trung tâm văn hoá, trung tâm linh đạo. Lý tưởng thì có thể dùng để nói lên sự lẫn lộn về lòng đạo New Age theo những cách thế sáng tạo khác nhau, như hội thảo, tranh luận và học hỏi nghiên cứu. Không may, nhiều trung tâm như thế lắm khi lại trở thành những trung tâm linh đạo Công giáo truyền bá tích cực lòng đạo New Age trong Hội thánh. Cần phải sửa chữa dĩ nhiên, không phải ở việc ngưng phát tán những lẫn lộn và sai lạc, nhưng còn làm sao để những trung tâm như thế trở thành hữu hiệu trong việc cổ võ linh đạo Kitô giáo chân thực. Những trung tâm văn hoá Công giáo cách riêng không phải chỉ là những cở sở thuần tuý dạy học nhưng còn là những không gian để đối thoại một cách lương thiện. Một số cơ sở chuyên môn xuất sắc có trách nhiệm trong tất cả những vấn đề này.

Một ít nhóm New Age lợi dụng mọi cơ hội để giải thích triết lý và hoạt động của họ cho người khác. Gặp gỡ những nhóm này đòi phải thận trọng và luôn phải có những người có khả năng cả về việc giải thích đức tin và linh đạo Công giáo, lẫn khả năng suy nghĩ có phê phán về tư tưởng và đường lối thực hành của New Age. Điều cực kỳ quan trọng là phải kiểm tra những uỷ nhiệm thư của những người, nhóm và tổ chức cho mình là cung cấp sự hướng dẫn và thông tin về New Age. Một vài trường hợp xảy ra là vì tìm hiểu không đầy đủ cho nên sau lại trở thành cổ võ hoặc bênh vực cho “những tôn giáo thay thế”. Một số tổ chức quốc tế tích cực theo đuổi những chiến dịch cổ võ tôn trọng “sự khác biệt về tôn giáo” và đòi định chế tôn giáo cho một số tổ chức đáng ngờ. Điều này hợp với quan điểm của New Age về sự chuyển động đi tới một thời đại ở đó tính cách giới hạn của các tôn giáo đặc thù mở đường cho sự đại đồng của một tôn giáo hoặc linh đạo mới. Đàng khác, đối thoại chân thực sẽ luôn luôn là trọng kính sự khác biệt ngay từ lúc đầu, và không tìm cách xoá nhoà những khác biệt bằng cách pha trộn mọi truyền thống tôn giáo với nhau.

Một vài nhóm New Age địa phương coi những cuộc hội họp của mình là những “nhóm cầu nguyện”. Những người được mời đến những nhóm như thế cần phải tìm những dấu vết của linh đạo Kitô giáo chân thực, và phải cảnh giác nếu như có một thứ nghi lễ khai tâm nào đó. Những nhóm như thế lợi dụng sự thiếu đào tạo thần học và tâm linh của những con người để dần dần nhử những người ấy đến cái thực ra là một hình thức phượng tự sai lạc. Người Kitô hữu phải học cho biết đối tượng và nội dung chân thực của cầu nguyện – trong Chúa Thánh Thần, qua Đức Giêsu Kitô, đến với Chúa Cha – để xét đoán đúng ý hướng của “nhóm cầu nguyện”. Cầu nguyện Kitô giáo và Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô sẽ được nhận biết dễ dàng. Nhiều người xác tín rằng vay mượn minh triết phương Đông là vô hại, nhưng ví dụ của Suy Niệm Siêu Việt (Transcendental Meditation) khiến các Kitô hữu phải cảnh giác về hướng đi đẩy chính mình sang một tôn giáo khác mà mình không biết (ở trường hợp này là Ấn giáo), cho dù những người cổ võ phong trào ấy tuyên bố họ là vô tư về tôn giáo. Học cho biết suy niệm không có vấn đề, nhưng đối tượng và nội dung của việc thực hành rõ ràng cho thấy nó có tương liên với Thiên Chúa đã được Đức Giêsu Kitô mạc khải hay không, có tương liên với một số mạc khải khác hay không, hay chỉ tương liên với chiều sâu ẩn giấu của cái ngã mà thôi.

Các nhóm Kitô hữu cổ võ việc chăm sóc trái đất là công trình sáng tạo của Thiên Chúa cũng cần phải có những hiểu biết cần thiết. Vấn đề trọng kính công trình sáng tạo là một trong những vấn đề được tiếp cận một cách sáng tạo trong các trường Công giáo. Một số lớn những gì được các yếu tố khá triệt để của phong trào môi sinh đề nghị khó dung hoà với đức tin Công giáo. Chăm sóc môi trường xét theo cách nói chung là dấu chỉ hợp thời cho thấy thái độ quan tâm đến những gì Thiên Chúa ban cho chúng ta, có lẽ là một dấu chứng cần thiết để cho thấy thái độ của Kitô giáo đối với công trình sáng tạo, nhưng “môi sinh sâu xa” (deep ecology) thường dựa trên phiếm thần và có khi trên các nguyên tác của ngộ đạo.

Thiên niên kỷ thứ ba bắt đầu mang đến một thời (kairos) đích thực cho công việc loan báo Tin Mừng. Trí lòng của con người đã sẵn sàng mở ra đón nhận những thông tin có giá trị về cách Kitô giáo hiểu về thợi gian và lịch sử cứu độ. Nhấn mạnh cái gì thiếu trong các lối tiếp cận khác không phải là ưu tiên chính. Vấn đề quan trọng hơn là phải thường xuyên tra cứu các nguồn mạch của đức tin của chính chúng ta, để chúng ta có thể cống hiến một cách trình bày sứ điệp Kitô giáo tốt và chấp nhận được. Chúng ta có thể hãnh diện về cái chúng ta đặt tin tưởng vào đó, cho nên chúng ta cần đối lại những áp lực của thứ văn hoá thông trị chỉ muốn chôn đi những ân huệ (x. Mt 25, 24-30). Một trong những khí cụ hữu ích nhất có thể dùng là cuốn Sách Giáo Lý của Hội thánh Công Giáo. Còn cả một gia tài mênh mông những cách thế để tiến đến sự thánh thiện trong đời sống của nhiều người nam nữ trong quá khứ và trong hiện tại. Ở đâu tính cách biểu tượng phong phú của Kitô giáo và những truyền thống nghệ thuật, thẩm mỹ và âm nhạc không được am tường hoặc bị lãng quên, thì ở đó còn có nhiều việc cần thực hiện cho chính các Kitô hữu, và sau cũng cả cho bất kỳ ai đang tìm kiếm một kinh nghiệm hay một ý thức lớn hơn về sự hiện diện của Thiên Chúa. Đối thoại giữa các Kitô hữu với những người bị New Age lôi cuốn sẽ hiệu quả hơn nếu để ý đến những gì đụng chạm đến cảm xúc và ngôn ngữ biểu tượng. Nếu trách nhiệm của chúng ta là hiểu biết, yêu mến và phục vụ Đức Giêsu Kitô, thì điều vô cùng quan trọng là bắt đầu từ việc am hiểu đúng đắn Kinh thánh. Nhưng trên hết, đến gặp Chúa Giêsu trong cầu nguyện và các bí tích – chính đó là những khoảnh khắc cuộc sống thường nhật của chúng ta được thánh hoá – là con đường chắc chắn nhất để nhận thức về toàn thể sứ điệp Kitô giáo.

Có lẽ biện pháp đơn giản nhất, rõ ràng nhất và khẩn cấp nhất, cũng là hữu hiệu nhất, cần thực hiện là khai thác tối đa những phong phú của gia tài tâm linh Kitô giáo. Các dòng tu lớn có những truyền thống suy niệm và linh đạo vững chắc có thể phổ biến qua những lớp học hay những thời gian nhà dòng có thể tiếp đón những người chân thành tìm kiếm. Làm như thế rồi, vẫn còn cần phải làm nhiều hơn nữa. Giúp con người ta trong việc tìm kiếm tâm linh bằng cách cống hiến cho họ những kỹ thuật đã được thử nghiệm và những kinh nghiệm về việc cầu nguyện chân thực có thể mở ra một cuộc đối thoại với họ. Cuộc đối thoại ấy có thể bộc lộ những nét phong phú của truyền thống Kitô giáo, và có lẽ sẽ cho thấy rõ New Age là gì.

Phần 7: Phụ trương


Phần này giới thiệu những sách, những thông tin, những từ ngữ của New Age.

Phần 8: Các Nguồn mạch:


Phần này giới thiệu những tài liệu của Giáo huấn Hội Thánh và những nghiên cứu, tác phẩm có liên quan đến New Age.

Phần 9: Thư mục Tổng quát

Ghi Chú

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2022

VÀI NÉT TỔNG QUAN VỀ PHONG TRÀO NEW AGE - THỜI ĐẠI MỚI

Thời sự Thần học - số 34, tháng 12/2003, tr. 7-17. 

 _Vân Hạ (tổng hợp một số bài viết từ Website)_ 

Nhân dịp phát hành Thời sự Thần học số 98 với chủ đề: Các tôn giáo mới, chúng tôi đăng lại các bài viết về Phong trào New Age của TSTH số 34, tháng 12/2003, nhân dịp Toà thánh ban hành Văn kiện "Đức Giêsu Kitô, Đấng mang đến nguồn nước hằng sống" (3/2/2003). Các bài viết tuy không còn nhiều tính thời sự, cũng góp thêm tư liệu cho độc giả suy tư về căn tính Kitô giáo, trong bối cảnh các tôn giáo mới đang ngày càng nở rộ.

I. Giới thiệu


Phong trào Thời đại mới (PTTĐM) có thể được xem là một hiện tượng tự thân. Không giống như các tôn giáo, nó không có “kinh kệ”, tổ chức trung ương, thành viên, giáo sỹ, thánh thất, giáo thuyết và tín điều, v.v.. Người ta thường dùng những định nghĩa rất đặc trưng cho các thuật ngữ của trào lưu này. Có thể nói, PTTĐM là một trào lưu tự-do-diễn-tả-tâm-linh, bao gồm một mạng lưới tín đồ và hành giả cùng thừa nhận một số tín chuẩn và lễ bái. Họ du nhập lối sống đạo của PTTĐM này vào các tôn giáo truyền thống mà xưa nay họ vẫn từng là thành viên chính thức. Những nhà xuất bản tư liệu của PTTĐM đang chiếm giữ ưu thế trong các tổ chức đầu não, hội thảo, hiệp hội, tư liệu, câu lạc bộ không chính thức thay cho các dịch vụ tôn giáo và các bài thuyết pháp của các tôn giáo truyền thống.

Thứ Năm, 15 tháng 12, 2022

THỜI SỰ THẦN HỌC - SỐ 34, THÁNG 12/2003

CHỦ ĐỀ : PHONG TRÀO NEW AGE - MỘT HIỆN TƯỢNG !? 

LỜI NGỎ_ 


Trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay, có nhiều phong trào tâm linh xuất hiện. Đa số đã tan biến như một ảo ảnh chợt đến rồi chợt đi. Một số rất ít còn để lại chút ảnh hưởng hay chỉ còn dư âm như một tên gọi đã từng gây “rối loạn” một thời. Nhưng phải thành thực mà nói, các phong trào đó ít nhiều phản ánh khát vọng tâm linh nơi con người. Con người không hài lòng với những gì hiện có, họ muốn bay cao và xa hơn. Con người muốn làm chủ vận mạng đời mình. Họ thao thức, trăn trở và băn khoăn tìm kiếm con đường tâm linh, con đường giải thoát. Con người hữu hạn hiện diện vì một cái gì vô hạn.

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2022

THỜI SỰ THẦN HỌC - SỐ 98, THÁNG 11/2022

CHỦ ĐỀ: CÁC TÔN GIÁO MỚI 

LỜI GIỚI THIỆU 


Tựa đề của số báo có thể gây ra ngỡ ngàng cho nhiều độc giả. Thời nay, không ai còn nghĩ đến việc sáng lập tôn giáo nữa, bởi vì phần lớn các vị sáng lập thuộc về thời xa xưa (Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca Mâu Ni, Đức Giêsu); hơn nữa, vào thời khoa học kỹ thuật hiện đại, các tôn giáo đang dần dần mất ảnh hưởng đối với xã hội, được đặt tên là trào lưu thế tục hóa. Trong bối cảnh như vậy, làm gì có chuyện tôn giáo mới nữa? Thế nhưng, một hiện tượng đã lôi kéo sự chú ý không những của những nhà nghiên cứu tôn giáo mà còn của các cơ quan an ninh quốc gia cũng như quốc tế, đó là sự xuất hiện của các tôn giáo mới vào cuối thế kỷ XX và vẫn tiếp tục khi bước sang thế kỷ XXI.

Thứ Năm, 10 tháng 6, 2021

TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC : VÀI GHI NHẬN VỀ LỐI TIẾP CẬN

Thời sự Thần học - Số 83, tháng 02/2019, tr. 191-215

 _Phan Tấn Thành_ 

“Tôn giáo và Khoa học”. Đề tài gợi lên nhiều câu hỏi về mối tương quan giữa hai vế: Tôn giáo và Khoa học có gì giống nhau? Hoặc đó là hai thế giới hoàn toàn khác biệt nếu chưa nói là xung khắc? Trước khi trả lời những câu hỏi ấy, cần phải xác định: Tôn giáo là gì? Khoa học là gì?

Câu hỏi càng trở nên cần thiết khi biết rằng cả hai từ ngữ Tôn giáo và Khoa học đều mới được du nhập từ Âu châu để diễn tả những thực tại phát sinh từ lục địa này, mà chưa hẳn đã tương ứng với những hoàn cảnh thực tại của Á châu. 

Thứ Tư, 19 tháng 5, 2021

LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC TÔN GIÁO

Thời sự Thần học - Số 83, tháng 02/2019, tr. 11-45 

_Gioan Nguyễn Long Quân, O.P._ 

Các nhà tâm lý học tôn giáo muốn biết tôn giáo là gì dưới khía cạnh tâm lý. Công việc của họ là tìm hiểu cách thức mà niềm tin của một cá nhân hoạt động trong thế giới riêng của người ấy. Lĩnh vực Tâm lý học tôn giáo (Psychology of Religion) bao gồm nhiều dạng nghiên cứu vốn có cơ sở lý thuyết sâu rộng, để lý giải ý nghĩa và mô hình tâm lý của các nội dung, tư tưởng và thực hành tôn giáo mang tính tập thể và cá nhân. Chắc chắn tiền thân của các cuộc điều tra mang tính nội tâm và thực nghiệm được tìm thấy trong lĩnh vực tâm lý học tôn giáo, có thể được nhận thấy trong các bản văn của truyền thống tôn giáo mang tính huyền bí, hiện sinh, triết học, thần học và thơ ca ở cả Đông phương lẫn Tây phương. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ XIX, các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội đã có hệ thống hơn, và người ta cũng nỗ lực nhiều hơn trong việc tìm hiểu các hiện tượng tôn giáo. Lịch sử ngành tâm lý học tôn giáo có thể được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn 1 từ năm 1880 đến Đệ nhị thế chiến, giai đoạn 2 từ thời kỳ hậu chiến đến những năm 1960, và giai đoạn 3 từ năm 1970 đến năm 2005.

Thứ Tư, 26 tháng 8, 2020

DOSTOYEVSKY VÀ VẤN NẠN VỀ THIÊN CHÚA

Thời sự Thần học - số 78, tháng 11/2017, tr. 125-151

_Tôma Nguyễn Quốc Minh Tuấn, O.P._

Dẫn nhập
I. Giới thiệu khái quát tác giả và các tác phẩm chính
1/ Thân thế.
2/ Sự nghiệp.
3/ Tóm tắt các tác phẩm chính
II. Dostoyevsky và vấn nạn về Thiên Chúa
1/ Sự đau khổ của con người.
2/ Gương mù của các Kitô hữu
III. Kết luận

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2020

ISLAM TẠI ĐÔNG NAM Á

Thời sự Thần học - số 77, tháng 08/2017, tr. 109-130

_Imtiyaz Yusuf_

I. Islam tại Đông Nam Á: tóm tắt lịch sử
II. Islam hiện nay tại Đông Nam Á
  1. Indonesia
  2. Malaysia
  3. Ảnh hưởng của Mùa Xuân Ả Rập đối với Đông Nam Á : đối chiếu

Mỗi khi nghe nói đến Islam, người ta thường liên tưởng ngay đến các nước ở vùng Trung Đông hoặc Ả Rập, nhưng không ngờ rằng những quốc gia có số đông tín đồ nhất nằm ở Á châu, đứng đầu là Ấn Độ (265.78 triệu: 20% dân số), rồi đến Indonesia (228.27 triệu: 88% dân số), Pakistan (195.87 triệu: 96.3% dân số), Bangladesh (149.87 triệu: 92% dân số), Trung Quốc (137.80 triệu: 10% dân số)[1]. Chúng tôi không muốn tìm hiểu đạo lý của đạo Islam, nhưng chỉ chú trọng đến sự bành trướng của tôn giáo này ở Đông Nam Á. Khác với Ấn giáo và Phật giáo đã hiện diện ở đây từ lâu đời, Islam mới đến vùng này từ thế kỷ XII. Những lý do gì đã giúp cho Islam phát triển? Tác giả đặc biệt suy nghĩ về tình hình hiện nay của Islam tại Malaysia và Indonesia[2]. Trong phần phụ lục, ban biên tập sẽ bổ túc với những yếu tố đã góp phần vào việc phổ biến Islam trong vùng vào những thế kỷ đầu.

Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2020

CÁC TÔN GIÁO TẠI ĐÔNG NAM Á

Thời sự Thần học - số 77, tháng 08/2017, tr. 59-75

_Barbara Watson Andaya_

Trong bài này, tác giả (một sử gia người Australia, giáo sư trưởng khoa Á châu tại đại học Hawai) không đi sâu vào nội dung đạo lý của các tôn giáo, nhưng trình bày ảnh hưởng của các tôn giáo đối với các dân tộc ở Đông Nam Á. Một khía cạnh được nêu bật là ngoại trừ đạo vật linh của các dân tộc bản địa, các tôn giáo hoàn cầu được du nhập từ bên ngoài đã cố gắng thích nghi vào truyền thống tín ngưỡng tại địa phương. Điều này được chứng tỏ qua sự khảo sát: 1/ Các tôn giáo Ấn Độ. 2/ Phật giáo Nam tông. 3/ Islam. 4/ Khổng giáo. 5/ Kitô giáo.
Nguồn: “Religious developments and Influences in Southeast Asia” in: South East Asia. A Historical Encyclopedia. From Angkor Vat to East Timor, edited by Ooi Keat Gin, ABC-Clio, Santa Barbara California 2004, p.1134-1139. Các chú thích là của người dịch. Viết tắt Đông Nam Á.
Đông Nam Á là nơi tiếp đón tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới. Philippines là quốc gia Kitô giáo duy nhất tại châu Á; dân số tín đồ Islam tại Indonesia đông nhất thế giới; Phật giáo Nam tông tại Campuchia, Lào, Myanmar rất nổi bật.

Những tôn giáo hoàn cầu đã thích nghi vào khung cảnh Đông Nam Á, và nhiều dân tộc vẫn còn gắn bó với các tín ngưỡng bản địa. Trong một vùng đa sắc về văn hóa, tôn giáo có thể trở thành nền tảng cho căn tính của dân tộc và sự đoàn kết quốc gia. Đồng thời tôn giáo cũng có thể làm mồi cho sự chia rẽ và xung đột, và kích động sự chống đối chính quyền.

1. Tôn giáo vật linh


Bất kỳ cuộc nghiên cứu lịch sử tôn giáo ở Đông Nam Á đều phải bắt đầu với tôn giáo vật linh, coi thế giới thiên nhiên được sinh động bởi muôn ngàn thần thánh[1]. Các thần thánh có thể rất tốt lành cũng như có thể tác hại, vì thế họ có thể mang lại phúc lộc hoặc tai họa. Vì thế người ta cử hành nhiều nghi lễ, đôi khi gồm cả hy tế thú vật và người sống, để làm hòa với các thần linh. Mặc dù nói chung, nam giới chủ sự các nghi lễ tôn giáo, nhưng tại nhiều nơi ở Đông Nam Á, các phụ nữ cũng có thể giữ vai trò chủ lễ. Một số xã hội đã dành một chỗ đặc biệt cho những người khoác y phục của người khác phái, biểu tượng cho sức sinh sản nam nữ. Khi được truyền bá vào địa phương, các tôn giáo hoàn cầu tìm cách bắt tay với những tín ngưỡng vốn đã hiện hữu tại đây. Các tôn giáo hoàn cầu thì để ý đến những công chuyện to lớn hoặc cuộc sống ở bên kia thế giới, còn đối với các công chuyện thường nhật (chẳng hạn như chữa lành bệnh tật, mùa màng phong phú, hoặc chiến thắng quân thù) thì người dân chạy đến khẩn cầu các thần thánh. Mặc dù việc cúng tế các thần linh đặt ra những vấn nạn cho đức tin tinh tuyền, nhưng nhiều cộng đồng vẫn tiếp tục thực hành vào thời nay.

2. Những ảnh hưởng của Ấn Độ


Ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo Ấn Độ[2] gia tăng do những cuộc trao đổi thương mại. Ngay từ thế kỷ VII, những ảnh hưởng này được thấy rõ nơi các vùng trồng lúa ở Myanmar hiện nay, Thái Lan, Campuchia, trung bộ Việt Nam, Java, và Bali, nơi mà các xã hội địa phương đang được tổ chức thành những đơn vị lớn hơn. Tuy nhiên tiến trình địa-phương-hóa có nghĩa là một vài khía cạnh của đạo Hindu (chẳng hạn như đẳng cấp) đã không bao giờ được áp dụng, ngoại trừ một vài hình thái đã được biến đổi.

Nhiều đền thờ vẫn còn tồn tại như là dấu tích rõ rệt của tư tưởng Ấn Độ. Những ngôi đền ở Angkor, thủ đô người Khmer, được xây cất hồi thế kỷ IX, tượng trưng cho ngọn núi của vũ trụ, và được dâng kính các thần của Hindu mà nhà vua có liên hệ. Sự ủng hộ của nhà vua dành cho Phật giáo Nam tông cũng rõ rệt ở những thời kỳ sau. Các quốc gia Ấn giáo và Phật giáo cũng xuất hiện ở Sumatra và Java, và những tư tưởng Ấn Độ có thể tìm thấy đâu đó trên quần đảo.

Sự xâm nhập của Islam vào thế kỷ XIV đã không xóa nhòa những tư tưởng của giai đoạn trước, cách riêng là tại đảo Java. Bali vẫn còn theo đạo Hindu, mặc dù đã có những biến đổi để thích nghi với môi trường địa phương. Tôn giáo Bali đã cung cấp một tiêu điểm làm nên bản sắc dân tộc để đối kháng sự tiến triển của nước thuộc địa, chẳng hạn như vào năm 1906, hằng trăm người Bali không vũ lực đã bị tàn sát bởi quân đội Hà Lan trong một lễ nghi tự sát (puputan). Nhằm duy trì văn hóa Hindu của Bali, quân Hà Lan giúp tái lập những gì được xem như tập tục tôn giáo cổ truyền.

Sau khi Indonesia giành được độc lập, các nhà lãnh đạo Bali đã tìm cách để cho tôn giáo được chính thức nhìn nhận bằng cách liên kết với đạo Hindu bên Ấn Độ. Trong tiến trình này, một vài giáo lý và nghi thức đã được thay đổi cho phù hợp với quy chuẩn ở Ấn Độ, nhưng phải nói rằng những truyền thống xa xưa vẫn còn phản ánh nơi nhiều khía cạnh của cuộc sống thường nhật của người dân Bali[3].

3. Phật giáo Nam tông


Từ thế kỷ XI, ảnh hưởng của Phật giáo Nam tông (Theravada) tại Đông Nam Á gia tăng nhờ những cuộc giao lưu với Sri Lanka, nơi mà tông phái này đang phát triển. Mặc dù những dấu vết thực hành đạo Hindu và Phật giáo Bắc tông vẫn tồn tại, những quan niệm về nhà vua tại Myanmar, Thái Lan, Camphucia và Lào cho thấy ảnh hưởng của Singala (Sri Lanka). Theo giáo lý của Nam tông, nhà vua cai trị là nhờ công đức lập được từ những kiếp trước, và nhà vua có nghĩa vụ phải bảo vệ Tăng đoàn. Thành phố Bagan ở Myanmar là một thí dụ rõ ràng của sự ủng hộ hoàng gia dành cho Phật giáo.

Xem ra các xã hội thời xưa bị lôi cuốn theo Phật giáo Nam tông do những tư tưởng về tái sinh và lập công, nhờ đó thiện nam tín nữ có thể được thưởng ở kiếp này và kiếp sau. Những dây liên kết giữa các tu sĩ và tín đồ được củng cố nhờ phong tục các thanh niên đi vào chùa để tu trong mùa mưa. Mặc dù giới nữ tu sĩ đã biến mất khỏi truyền thống Nam tông, nhưng các phụ nữ đạo đức vẫn được kính trọng vì kiến thức của họ. Các tu sĩ và các phụ nữ giảng dạy, học hành, niệm kinh, nhưng họ cũng chủ tọa những lễ nghi nhằm xua đuổi tà ma hoặc cầu khẩn thịnh vượng chung. Vì thế có thể hòa trộn việc thờ kính các thần linh địa phương với các lễ nghi của Nam tông. Vào thế kỷ XVIII, sức mạnh của Phật giáo Nam tông tại Đông Nam Á đã giúp cho tăng đoàn ở Sri Lanka hồi sinh sau những suy sụp do sự xâm lăng của Bồ Đào Nha và Hà Lan.

Trong tất cả các quốc gia theo Phật giáo Nam tông, mối tương quan giữa chính quyền với tăng đoàn luôn có những căng thẳng, bởi vì uy tín tinh thần của các tu sĩ cao hơn, và các vị lãnh đạo tăng đoàn đôi khi cũng coi nhẹ quyền bính của hoàng gia. Vì thế, một đề tài quan trọng là nhà nước phải cố gắng để cho tăng đoàn đi theo đường hướng của mình. Điều này đã thành tựu ở Thái Lan, khi vua Rama IV (trị vì từ năm 1851 đến năm 1868) đã thiết lập dòng cải tổ Thammayut năm 1833. Sự liên minh giữa nhà nước và tôn giáo làm giảm bớt những phân rẽ ngay trong hàng ngũ các tu sĩ. Chính sách này được củng cố thêm vào thời nay, cụ thể là đạo luật về Tăng đoàn năm 1963, gắn chặt hàng lãnh đạo Tăng đoàn với bộ máy hành chánh của nhà nước. Vào những thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước, vài tu sĩ và Phật tử đã chỉ trích tiến trình hiện đại hóa của Thái Lan và những hành động phi pháp của Tăng đoàn. Những nhà cải cách chủ trương một thứ Phật giáo dấn thân xã hội và chấp nhận những giá trị luân lý. Một hướng cải tổ nữa là nữ giới đòi được phục hồi vị trí của họ trong giới tu trì.

Xét theo lịch sử, tại Miến Điện, không có quy định rõ rệt về quyền hành trong Tăng đoàn, vì thế những tranh luận giữa các môn phái không phải là họa hiếm. Vào cuối thế kỷ XIX, vai trò lãnh đạo của tăng đoàn bị suy giảm do sự áp đặt chế độ thuộc địa của nước Anh, sự bãi bỏ hoàng gia, sự thất bại trong việc chỉ định một Tăng thống. Trong bối cảnh ấy, tại Miến Điện, vai trò của các “thánh nhân” nổi bật trong cuộc lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Năm 1930, một cuộc kháng chiến được chỉ huy bởi Saya San, một cựu Tăng sĩ. Chế độ thuộc địa cũng đã tạo ra một thứ “Phật giáo dấn thân vào chính trị” nơi hàng ngũ trí thức, và sau khi được độc lập, điều này được biểu lộ nơi chính sách của ông U Nu (1907–1995). Trong ba nhiệm kỳ làm thủ tướng (từ năm 1948 đến 1962), ông đề xướng học thuyết “chủ nghĩa xã hội Phật giáo Myanmar” như là nền tảng của chính sách quốc gia. Từ năm 1962, chính quyền quân sự đã hạn chế những nghi lễ cúng tế các thần linh, và đàn áp những khuynh hướng chống chính phủ ở trong hàng tăng giới, nhưng tăng đoàn vẫn còn ảnh hưởng mạnh đến đời sống của nhân dân[4].

Tại Campuchia và Lào, mặc dù chế độ thuộc địa, nội chiến, chính quyền cộng sản đã làm suy yếu tăng đoàn, nhưng có những nhà sư vẫn bộc lộ sự chống đối nhà nước. Sau khi quân đội Việt Nam rút lui khỏi Campuchia năm 1989, Phật giáo lại được nhận làm quốc giáo; các thiếu niên được phép tu trì tại các chùa. Từ thập niên 1970, đã có sự trỗi dậy của Phật giáo bên Lào, tiếp theo thời kỳ bị đảng Pathet Lào khống chế. Xét về giáo lý, Phật giáo đã được giản lược rất nhiều, và các nhà sư buộc phải học tập tư tưởng Mác Lê. Mặc dù xác tín rằng việc thấm nhuần luân lý Phật giáo sẽ là bờ đê ngăn chặn những ảnh hưởng của Tây phương, nhưng nhịp độ phát triển kinh tế và xã hội hiện nay tại Đông Nam Á chắc chắn sẽ giảm bớt ảnh hưởng của Phật giáo đối với những thế hệ sắp tới.

4. Khổng giáo


Trung Hoa đã đô hộ Việt Nam một ngàn năm cho đến thế kỷ XI, và kể cả sau khi đã giành được độc lập, các cấp lãnh đạo Việt Nam vẫn nhìn nhận sự lệ thuộc. Điều này giải thích ảnh hưởng của các triết lý và tôn giáo Trung Hoa, được trộn lẫn với niềm tin vào các thần linh thiên nhiên, tổ tiên và các anh hùng dân tộc.

Sự phát triển của Phật giáo Bắc tông đã bắt đầu từ thế kỷ IV, nhưng từ thế kỷ XIV, Phật giáo đã bắt đầu suy yếu bởi vì bị giới trí thức Nho giáo tố cáo các hành vi mê tín. Tuy vậy, Phật giáo vẫn giữ thế mạnh ở thôn quê, nơi mà Phật giáo liên kết với Lão giáo bình dân (Đạo giáo). Tuy khó nắm bắt những tư tưởng cao siêu của Lão Tử, nhưng người Việt bị thu hút bởi những vị thần linh bất tử. Trong các lễ nghi đồng bóng, các phụ nữ có vai trò quan trọng bởi vì họ làm môi giới tiếp xúc với thế lực thần thiêng.

Noi gương Trung Quốc, triều đình Việt Nam từ thế kỷ XV đã cổ động Nho giáo. Kết quả là những giới luật trước đây đã được thi hành lỏng lẻo nay trở nên nghiêm khắc hơn. Gia sản của Trung Quốc đâm sâu hơn nơi giới sĩ phu, tuy vậy cũng có một sự thích nghi với phong tục địa phương, cách riêng về mối tương quan giữa nam và nữ giới.

Thế kỷ XVII chứng kiến một sự phục hưng của Phật giáo, nơi các nhà lãnh đạo, đồng thời Kitô giáo bắt đầu được truyền bá và đã thu hút các tín hữu, đặc biệt là các phụ nữ tại triều đình. Ảnh hưởng Khổng giáo tại miền Bắc đã giảm bớt khi bờ cõi nước Việt mở rộng xuống miền Nam, tại những vùng đất trước đây thuộc người Chăm và người Khmer và các sắc tộc ở cao nguyên.

Trong thế kỷ XIX, triều đình tìm cách củng cố các tư tưởng Khổng giáo, và trở thành đố kị với Kitô giáo, bị coi như là nguy cơ gây xáo trộn trật tự xã hội. Dưới thời Pháp thuộc từ thập niên 60 của thế kỷ XIX, Khổng giáo giảm uy thế, mở đường cho những giáo phái mới, đặc biệt là ở miền Nam. Đạo Cao Đài, được thành lập năm 1926, nắm quyền kiểm soát vùng đất riêng của họ vào thời buổi rối ren của đệ nhị thế chiến (1941-1945). Đạo Cao Đài chủ trương kết hợp những tinh hoa của các tôn giáo hoàn cầu, thờ kính các thánh nhân cũng như thực hành đồng bóng. Đạo Hòa Hảo, tự bản chất là một hình thái địa phương của Phật giáo cộng thêm lòng mong đợi một thế giới huy hoàng, đã bành trướng ở đồng bằng sông Cửu Long vào thập niên 1940. Tôn giáo này đã đặt nền tảng cho một lực lượng chính trị. Thập niên 1950 đã chứng kiến một sự phục hưng của Phật giáo Bắc tông, chủ trương đối lập với chính quyền Ngô Đình Diệm người Công giáo và đồng minh với Hoa Kỳ (1955-1963). Những dính líu của tôn giáo vào chính trị đã khiến cho chính quyền cộng sản từ khi cai trị khắp cả nước vào năm 1975 đã e dè các tôn giáo, tuy rằng các sự hạn chế đã được nới ra từ giữa thập niên 1980.

5. Islam


Chứng tích đáng tin cậy về sự hiện diện của một cộng đồng Islam tại Đông Nam Á là do ông Marco Polo (1254–1324) cung cấp khi ông đến viếng thăm miền bắc đảo Sumatra năm 1291. Chúng ta biết rằng đạo Islam không đến Đông Nam Á cách trực tiếp từ Trung Đông (mạn Tây của châu Á), nhưng xuyên qua Ấn Độ, nơi mà tôn giáo này đã được thích nghi với xã hội địa phương chịu ảnh hưởng của đạo Hindu. Trường phái Shafi’I chiếm ưu thế tại miền nam Ấn Độ; điều này giải thích sự bá chủ của trường phái này tại Đông Nam Á[5]. Người ta cho rằng các tín đồ Muslim người Hoa, đã trở lại đạo nhờ những chuyến đi buôn, đã truyền đạo đến Philippines, Borneo, và miền Bắc đảo Java.

Công cuộc Islam-hóa đã diễn ra nhanh chóng ở vùng đảo Đông Nam Á vào giữa thế kỷ XV, nhưng không bành trướng ở vùng lục địa, nơi mà Phật giáo và Khổng giáo đã có ảnh hưởng mạnh. Giới lãnh đạo Malay ở Melacca, trung tâm thương mại trong vùng, đã trở thành những người bảo trợ cho Islam vào khoảng năm 1430. Đạo Islam di chuyển nhanh chóng theo những con đường thương mại bởi vì ngôn ngữ Malay vốn đã thông dụng trong việc giao dịch buôn bán, nay trở thành phương tiện truyền bá tín ngưỡng. Giáo huấn Islam chiếm được cảm tình của các triều đình địa phương, bởi vì các tiểu vương mong mỏi thu hút những nhà buôn theo đạo Islam và được gia nhập một cộng đồng lừng danh đã quy tụ những lãnh đạo ở Istanbul và sau đó là Mughal (Ấn Độ). Khi giải thích sự truyền bá nhanh chóng của đạo Islam, các học giả đã nhấn mạnh đến sứ điệp đơn giản và trực tiếp của tôn giáo này, cũng như những hướng dẫn thực tế cho đời sống. Thêm vào đó, khuynh hướng huyền bí Sufi xem ra cũng rất hấp dẫn bởi vì mục tiêu kết hiệp với Thượng đế (Allah) cũng giống với các tư tưởng vốn có về sự hòa đồng với thế giới thần linh. Ngoài ra cũng phải kể đến một tiến trình địa phương hóa, bởi vì đạo chấp nhận các tục lệ đá gà và đánh bạc. Các phụ nữ ít khi phải trùm khăn và ngay cả ở giới thượng lưu, việc loại trừ nữ giới cũng bị giảm thiểu. Biến cố hải cảng Melacca bị quân Bồ Đào Nha xâm chiếm năm 1511 đã góp phần vào việc bành trướng đạo Islam, theo nghĩa là các thương gia mở ra những hải cảng khác, và những trung tâm quan trọng như là Brunei và sau đó Makassar cũng theo đạo. Có lẽ biến cố quan trọng nhất là đế quốc Majapahit theo Hindu và Phật giáo đã thất thủ vào khoảng năm 1524 trước sự tấn công của liên minh các tiểu vương Islam nằm ở bờ biển phía Bắc đảo Java, tuy rằng vài địa điểm nhỏ ở phía Đông còn theo đạo Kitô, dưới quyền bảo trợ của người Bồ Đào Nha và Hà Lan.

Tuy dù sức mạnh của Islam nằm ở khả năng thích nghi với những niềm tin và thực hành đã có trước đó, nhưng thỉnh thoảng cũng có những đợt cải cách tìm cách thanh lọc đức tin khỏi những bồi đắp ngoại lai. Chẳng hạn như việc phái Wahabi chiếm Mecca năm 1803 đã gợi lên “chiến tranh Padri” (1821-1837) tại Minangkabau (Sumatra) vào đầu thế kỷ XIX[6]. Phe cải cách đã chỉ trích những nhà cầm quyền vì đã lạc đường trong vai trò cổ động cho đạo Islam. Ở vùng quê, đặc biệt ở Java, sự chống đối chính quyền thường được quy tụ chung quanh những nhân vật lỗi lạc. Người dân tin rằng một quân vương thanh liêm (ratu adil) sẽ xuất hiện, và các trường học tôn giáo đã tạo ra một mạng lưới nối kết các giáo viên và học sinh thuộc nhiều miền.

Chế độ thuộc địa làm tăng thêm sức mạnh cho Islam trong việc thúc đẩy các cuộc kháng chiến, đặc biệt từ khi khai trương kênh Suez năm 1869 đã giúp họ liên kết với Trung Đông. Những căng thẳng giữa Islam và Tây phương, và nỗ lực của Thổ Nhĩ Kỳ để xây dựng một phong trào Islam toàn cầu, đã khiến cho các lãnh tụ Islam tỏ ra nghi kỵ đối với các nhà cầm quyền thực dân. Điều này đã xảy ra nơi nhiều cuộc kháng chiến chống thuộc địa do đạo Islam thúc đẩy tại Indonesia (thuộc địa Hà Lan). Tuy rằng cuộc “thánh chiến” lâu dài nhất (30 năm) diễn ra tại Aceh, nhưng các cuộc nổi dậy khác đã bùng lên khắp quần đảo. Các tín đồ Islam ở quần đảo Malaysia và miền nam Thái Lan cảm thấy căm tức bởi vì họ chỉ là một tôn giáo thiểu số.

Dưới chế độ thuộc địa, bộ mặt chính trị của Islam bị kiểm soát chặt chẽ trong tiền bán thế kỷ XX. Tuy nhiên, kể từ khi bùng nổ chiến tranh Thái Bình Dương (1941–1945), vai trò chính trị của Islam đã nổi bật trong các quốc gia ở Đông Nam Á. Tại Brunei, Islam trở thành quốc giáo, và nhà vua nắm quyền tuyệt đối. Tại quốc gia đa nguyên Malaysia, đạo Islam trở nên quan trọng bởi vì nó xác định căn tính “Malay”, nhưng điều này cũng đã gây ra một phản ứng mạnh mẽ cho phe đối lập Malay. Năm 1999, hai tiểu quốc (Kelantan và Terengganu) nằm trong tay những người chỉ trích chính sách độc quyền của dân Malay. Tại miền nam Philippines, đạo Islam đã trở thành điểm tựa cho những phong trào chống lại chính sách của trung ương Manila.

Mặc dù khoảng 90 % dân số Indonesia tự nhận là theo đạo Islam, nhưng một số lớn chỉ là tín đồ theo danh nghĩa, đặc biệt tại Java. Vào hồi năm 1945, những lời kêu gọi tranh đấu độc lập không được hưởng ứng trên toàn quốc, mặc dầu ngoài đảo Java, sự chống đối chính quyền trung ương vốn được thành hình chung quanh đạo Islam. Các sự bất đồng giữa các nhóm Islam đã bị suy giảm sau khi tổng thống Suharto lên cầm quyền (1967-1998) bởi vì các lãnh đạo của Islam đã được mời tham gia vào chính sách “Trật tự mới”. Những người ngoài Islam cảm thấy lo âu đối với thái độ của chính quyền đối với chính sách đa nguyên tôn giáo. Islam xem ra được ưu đãi, trong khi các tín ngưỡng bản địa bị ngăn cản. Từ cuối thập niên 1990, bùng lên các nhóm Islam chiến đấu, và những cuộc đụng độ giữa những tín đồ theo Islam và Kitô giáo đã gây ra cho hàng ngàn người thiệt mạng, đặc biệt tại Ambon. Các chuyên gia cho rằng việc trở lại chế độ bao dung tùy thuộc nhiều vào sự thịnh vượng kinh tế và bảo vệ các quyền tự do chính trị[7].

6. Kitô giáo


Năm 1493, Tòa thánh bắt buộc các vua Công giáo phải cỗ võ việc truyền bá Kitô giáo, và phân chia thế giới thành hai lãnh vực trao cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha[8]. Vì thiếu nguồn lực cho nên tại Đông Nam Á, nước Bồ Đào Nha chỉ giới hạn việc truyền giáo vào một vài địa điểm nhỏ ở Đông Indonesia như là Timor; còn bên Philippines thì Tây Ban Nha thành công hơn. Chuyến đi lần thứ nhất cập bến năm 1521, nhưng cuộc truyền giáo thật bắt đầu sau năm 1570, khi quân Tây Ban Nha chiếm đóng Manila. Việc truyền đạo thất bại ở miền nam vì sức mạnh của các tiểu vương Islam, nhưng ở phía bắc thì không có vương quốc nào mạnh có khả năng chống lại thực dân. Nhờ kinh nghiệm học từ Nam Mỹ, các nhà truyền giáo Tây Ban Nha đã tỏ ra bao dung hơn đối với vài thực hành tín ngưỡng, nhưng lên án các thủ lãnh của tôn giáo bản địa là thờ lạy tà thần. Nhiều khía cạnh của Công giáo – tựa như nước thánh và tôn kính các thánh, thu hút người Phi-luật-tân, và việc trở lại của những thủ lãnh địa phương đã thôi thúc các bề tôi cũng theo đạo Kitô.

Do vị trí ưu đãi trong xã hội, các thừa sai Tây Ban Nha không chấp nhận cho các giáo sĩ bản xứ được bình đẳng với họ. Trong thế kỷ XIX, một vài vụ nổi dậy của nông dân đã được khởi xướng do những tín hữu giáo dân, nhưng đến khi ba giáo sĩ bản xứ bị hành hình vì tội phản loạn thì cuộc cánh mạng năm 1896 đã được đổ thêm dầu. Từ năm 1902, nước này bị Hoa Kỳ chiếm làm thuộc địa, và các nhà truyền giáo Tin lành được phép hoạt động. Mặc dù đã mất một số tài sản, Giáo hội Công giáo vẫn giữ ảnh hưởng mạnh trong xã hội Philippines. Điều này đã rõ dưới thời tổng thống Ferdinand Marcos (1965-1986). Nói chung, hàng giáo phẩm Công giáo ủng hộ việc thiết quân luật năm 1972 vì coi đó như một biện pháp chống lại cộng sản. Tuy nhiên, sự chống đối trong nội bộ Giáo hội tăng lên dần, và lập trường của Giáo hội chống lại Marcos là một nhân tố quan trọng trong việc ông bị lật đổ. Giáo hội công giáo vẫn còn hấp dẫn dân Philippines, bất chấp con số phần tử các giáo phái Tin lành vẫn gia tăng. Giáo hội công giáo vẫn còn là một trong những lực lượng hữu hiệu để làm thay đổi xã hội.

Ít có những công trình nghiên cứu về hoạt động của Kitô giáo ở những vùng khác của Đông Nam Á. Từ thế kỷ XVII người Hà Lan ủng hộ đạo Tin lành ở Indonesia, còn tại Việt Nam các thừa sai người Pháp truyền đạo, bất chấp những nghi ngờ của triều đình. Mặc dù nhiều thừa sai đã bị giết nhưng Kitô giáo vẫn lớn mạnh dưới thời Pháp thuộc, cách riêng ở miền nam.

Đạo Công giáo được người Bồ Đào Nha đem đến Đông Timor là một nhân tố quan trọng giúp cho họ bảo vệ độc lập chống lại Indonesia. Ở Singapore, Kitô giáo có nhiều người theo, cách riêng nơi những người đã theo nền giáo dục của Anh. Nên ghi nhận là vào thời cận đại, tại Đông Nam Á, nhiều quốc gia ngoài Kitô giáo đã ngăn cấm hoạt động truyền giáo hoặc chỉ cho phép hoạt động tại các sắc tộc bản địa[9].

Cho đến nay chưa có bộ lịch sử các tôn giáo tại Đông Nam Á. Tuy vậy, ta có thể nhận ra vài nét chung. Phần đông còn tin vào các thần linh; tuy vậy nhiều người cố gắng phát triển niềm tin cá nhân dựa trên các bản văn sách thánh. Sự phát triển kinh tế không mang theo sự suy giảm lòng đạo. Tôn giáo vẫn còn là nguồn lực cho lòng trung thành với quốc gia, những cũng có thể là nguồn chống đối nhà nước.

Thư tịch

  1. Andaya, Barbara Watson, and Yoneo Ishii. 1992. “Religious Developments in Southeast Asia, c.1500–1800.” Pp.508–571 in The Cambridge History of Southeast Asia, vol.1. Edited by Nicholas Tarling. Melbourne and Cambridge: Cambridge University Press.
  2. Cannell, Fenella.1999. Power and Intimacy in the Christian Philippines. Cambridge: Cambridge University Press.
  3. de Casparis, J.G., and I.W.Mabbett.1992. “Religion and Popular Beliefs of Southeast Asia before c.1500.” Pp.276–339 in The Cambridge History of Southeast Asia, vol.1. Edited by Nicholas Tarling.Melbourne and Cambridge:Cambridge University Press.
  4. Gowing, Peter.1967. Islands under the Cross:The Story of the Church in the Philippines. From Conquest to Revolution. Quezon City:Ateneo de Manila University.
  5. Hefner, Robert W. 2000. Civil Islam:Muslims and Democratization in Indonesia. Princeton: Princeton University Press.
  6. Ileto, Reynaldo. 1992. “Religion and AntiColonial Movements.” Pp.197–248 in The Cambridge History of Southeast Asia, vol.2. Edited by Nicholas Tarling. Melbourne and Cambridge: Cambridge University Press.
  7. Jamieson, Neil L. 1993. Understanding Vietnam. Berkeley and London: University of California Press.
  8. Lester, Robert. 1973. Theravada Buddhism in Southeast Asia. Ann Arbor: University of Michigan Press.
  9. Mohd, Taib Osman, ed.1997. Islamic Civilization in the Malay World. Istanbul: The Research Centre for Islamic History,Art and Culture.
  10. Riddell, Peter G. 2001. Islam and the MalayIndonesian World:Transmission and Responses. Honolulu: University of Hawai’i Press.
  11. Stange, Paul.1992. “Contemporary Religious Change.” Pp.529–584 in The Cambridge History of Southeast Asia, vol.2. Edited by Nicholas Tarling. Melbourne and Cambridge: Cambridge University Press.
  12. Voll, John O.1994. Islam:Continuity and Change in the Modern World. Syracuse, NY: Syracuse University Press.
  13. Woodside, Alexander.1976. Community and Revolution in Modern Vietnam. Boston: Houghton Mifflin.
Các tôn giáo tại các quốc gia Đông Nam Á (dựa theo thống kê của CIA), https://www.cia.gov/library/publications/the-world- factbook/fields/2122.html.
  1. Brunei: Islam (quốc giáo) 78.8%, Kitô giáo 8.7%, Phật giáo 7.8%, các tôn giáo khác (kể cả tín ngưỡng bản địa) 4.7% (2011 ước lượng).
  2. Campuchia: Phật giáo (quốc giáo) 96.9%, Islam 1.9%, Kitô giáo 0.4%, các tôn giáo khác 0.8% (2008 ước lượng).
  3. Indonesia: Islam 87.2%, Kitô giáo 7%, Công giáo 2.9%, Hindu 1.7%, các tôn giáo khác 0.9% (gồm cả Phật và Khổng giáo, không rõ 0.4% (2010 ước lượng).
  4. Lào: Phật 64.7%, Kitô giáo 1.7%, không tôn giáo 31.4%, không khai 2.1% (2015 ước lượng).
  5. Malaysia: Islam (quốc giáo) 61.3%, Phật giáo 19.8%, Kitô giáo 9.2%, Hindu 6.3%, Khổng giáo, Lão giáo, các tôn giáo Trung Hoa 1.3%, các tôn giáo khác 0.4%, không tôn giáo 0.8%, không rõ 1% (2010 ước lượng)
  6. Myanmar: Phật giáo 87.9%, Kitô giáo 6.2%, Islam 4.3%, Vật linh 0.8%, Hindu 0.5%, tôn giáo khác 0.2%, không tôn giáo 0.1%. Dữ liệu dựa theo thống kê năm 2014, bao gồm cả dân số của tiểu quốc Rakhine, được xem như theo Islam.
  7. Philippines: Công giáo 82.9% (Công giáo Rôma 80.9%, Aglipayan 2%), Islam 5%, Tin lành 2.8%, Iglesia ni Kristo 2.3%, các tông phái khác của đạo Kitô 4.5%, tôn giáo khác 1.8%, không rõ 0.6%, không tôn giáo 0.1% (thống kê năm 2000).
  8. Singapore: Phật giáo 33.9%, Islam 14.3%, Lão giáo 11.3%, Công giáo 7.1%, Hindu 5.2%, Kitô giáo 11%, tôn giáo khác 0.7%, không tôn giáo 16.4% (2010 ước lượng).
  9. Thái Lan: Phật giáo 94.6%, Islam 4.3%, Kitô giáo 1%, tôn giáo khác <.1%, không tôn giáo <.1% (2015 ước lượng).
  10. Timor-Leste: Công giáo 97.6%, Tin lành 2%, Islam 0.2%, tôn giáo khác 0.2% (2015 ước lượng).
  11. Việt Nam: Phật giáo 7.9%, Công giáo 6.6%, Hòa Hảo 1.7%, Cao Đài 0.9%, Tin lành 0.9%, Islam 0.1%, không tôn giáo 81.8% (2009 ước lượng).

[1] “Tôn giáo vật linh” theo nguyên gốc tiếng Anh là animism. Danh từ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau trong triết học và dân tộc học. Theo Edward Tylor, đây là tôn giáo sơ khai nhất của con người: tin rằng ngoài vật chất, còn có một yếu tố là linh hồn (anima trong tiếng Latinh) nữa. Một số nhà nhân học (chịu ảnh hưởng của Sigmund Freud) cho rằng các dân tộc “bán khai” tin rằng thần linh hiện diện trong các sự vật chung quanh ta: núi non, sông ngòi; cũng tương tự các em bé tin rằng tất cả mọi vật đều sống động, và có thể nói chuyện được. Ngày nay, các nhà nhân chủng sử dụng thuật ngữ “tôn giáo cổ truyền” (traditional religions) thay cho “vật linh”. Xem bài viết về các Dân tộc bản địa trong số này.
[2] Cần phân biệt “tôn giáo Ấn Độ” (Indian religions) và “đạo Hindu” (Hinduism). Các “tôn giáo Án độ” ám chỉ các tôn giáo nảy sinh từ Ấn Độ, trong đó có cả đạo Phật. “Đạo Hindu” (hoặc Ấn giáo) ám chỉ tôn giáo chính thức tại Ấn dựa trên kinh Veda, tuy cũng đã trải qua nhiều biến thể.
[3] Ngày nay, Bali là một tỉnh của nước Indonesia, với dân số 4.8 triệu, theo đạo Hindu trong khi đa số quốc gia theo đạo Islam.
[4] Gần đây, ngày 15/8/2007, các nhà sư đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc nổi dậy chống chính quyền quân sự, buộc họ phải nhường chỗ cho chính quyền dân cử.
[5] Shafi là một trong bốn trường phái giải thích luật Coran, lấy tên của vị sáng lập Muhammad ibn Idrīs al-Shāfiʿī (767-820), thuộc hệ Sunni.
[6] Wahabi là một phong trào tự xưng là chính thống của phái Sunni, chủ trương tuân giữ kinh Coran theo sát nghĩa đen. Dưới sự lãnh đạo của Muḥammad ʿAlī Pascià, họ đã chiếm Medina (1812) và Mecca (1813) để áp đặt chủ trương nghiêm khắc của mình. Cuộc chiến tại Minangkabau (mạn Đông của đảo Sumatra giữa các pari (giáo sĩ chính thống) với các adat (phái quý tộc). Phe adat phải cầu cứu người Hà Lan để đánh phe pari.
[7] Xem thêm bài “Islam tại Đông Nam Á” trong số này.
[8] Đúng ra đây là chiếu chỉ Inter caetera (4/5/1493) của đức giáo hoàng Alexandro VI xác định ranh giới hoạt động giữa hai đế quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
[9] Xem bài “Kitô giáo tại Đông Nam Á” trong số này.