Hiển thị các bài đăng có nhãn Sáng tạo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sáng tạo. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2022

THẦN HỌC VỀ SỰ TẠO DỰNG

Thời sự Thần học – Số 44, Tháng 6/2006, tr. 54-78.

_Hoà Bình_


Hồi còn nhỏ khi dọn mình rước lễ lần đầu, chúng ta được dạy rằng :"Đức Chúa Trời dựng nên trời đất trong bảy ngày". Thế nhưng, dần dần chúng ta biết : vũ trụ này không phải chỉ thành hình trong vòng bảy ngày mà cả hằng triệu năm. Hơn thế nữa, vũ trụ này là do vật chất tiến hóa chứ chẳng phải do ai dựng nên cả! Thế thì thử hỏi: đức tin về Thiên Chúa tạo dựng có còn ý nghĩa gì nữa hay không? Chúng ta sẽ khảo cứu đạo lý về sự tạo dựng từ Kinh thánh, qua truyền thống của Giáo hội, và sau cùng, đối chiếu đức tin với những vấn nạn của khoa học hiện đại, tựa như: tiến hóa, môi sinh…

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2022

CON NGƯỜI TRONG DÒNG LỊCH SỬ TẠO DỰNG VÀ TIẾN HÓA

Thời sự Thần học – Số 44, Tháng 6/2006, tr. 5-53.

_Minh Sơn, O.P._


Con người bởi đâu mà hình thành nên? Và có mặt trên trái đất này từ khi nào? Câu hỏi thật nhiêu khê và gây những cuộc tranh luận gay gắt từ giữa thế kỷ XIX cho đến nay vẫn còn tiếp diễn. Quả thật, từ khi thuyết tiến hóa chủ trương rằng con người bởi khỉ mà ra, bản phúc trình khoa học này như trái bom làm nổ tung cả công luận thế giới và đặc biệt gây hoang mang, khủng hoảng đức tin không ít cho giới Kitô Giáo. Bởi vì sự khẳng định này của khoa học có vẻ đi ngược lại với nhiều khẳng định của Thánh kinh và đe doạ mối duy nhất, thậm chí sự tồn tại của thế giới Kitô giáo.

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2022

THỜI SỰ THẦN HỌC – SỐ 44, THÁNG 6/2006

CHỦ ĐỀ: TẠO DỰNG VÀ TIẾN HOÁ

LỜI NGỎ


Thế giới - Vũ trụ - Con người đã được hình thành thế nào? Phải chăng một cuộc tiến hoá hàng triệu triệu năm đã diễn ra và sau khi thế giới, vũ trụ có mặt, thì con người xuất hiện như đỉnh cao của cuộc tiến hoá này?… Những câu hỏi như trên đã từng là mối bận tâm các nhà bác học, sinh vật học, nhân chủng học, khảo cổ học… và cả các nhà Thần học nữa. Tất cả họ dường như muốn tìm một câu trả lời dứt khoát cho những câu hỏi trên. Nhưng xem ra, vẫn chưa có kết luận chung cuộc. Thời gian cùng lịch sử phát triển của tư tưởng đã bổ sung - ngày càng phong phú - cho câu trả lời này.

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2022

SỰ ĐÓNG GÓP CỦA THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’ VÀO GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA HỘI THÁNH

Thời sự Thần học – Số 88, tháng 5/2020, tr. 163-197.

_Hồng y Peter Kodwo Appiah Turkson_

Tác giả là Chủ tịch Hội đồng Tòa thánh về Công lý và Hòa bình từ năm 2009, và với cuộc cải tổ giáo triều của ĐTC Phanxicô, ngài được đặt đứng đầu Bộ Thăng tiến Con người, từ ngày 1/1/2017. Trong một bài thuyết trình tại Taizé ngày 23/9/2017, tác giả nêu bật sự liên tục và mới mẻ của thông điệp Laudato si’ trong toàn bộ Giáo huấn xã hội của Hội thánh, đặc biệt là lối tiếp cận vấn đề môi sinh cách toàn diện: việc bảo vệ môi trường cần được gắn liền với việc bảo vệ phẩm giá con người, nhất là người nghèo. Nội dung gồm:
1. Đọc ra và đáp trả các dấu chỉ của thời đại
2. Đâm rễ trong Kinh thánh
3. Liên tục với Huấn quyền
4. Quan tâm đến thiện ích chung. Chăm sóc trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta
5. Sinh thái nhân bản. Quan tâm đến nhân phẩm
6. Ưu tiên chọn lựa người nghèo
7. Sinh thái toàn diện và phát triển toàn diện con người
Nguồn : “The contribution of Laudato si’ to Catholic Social Doctrine”. http://www.humandevelopment.va/it/risorse/interventi/2017/the-contribution-of-laudato-si--to-catholic-social-doctrine--23-.html
Viết tắt : GHXH = Giáo huấn xã hội của Hội thánh. Bản PDF ở cuối trang.

Thứ Ba, 13 tháng 9, 2022

CUỐN SÁCH THIÊN NHIÊN

Lịch Sử Của Một Ẩn Dụ Nằm Giữa Khoa Học Và Thần Học


Thời sự Thần học – Số 88, tháng 5/2020, tr. 130-162.

_Giuseppe Tanzella-Nitti_ 

Gần đây, huấn quyền Công giáo thường sử dụng ẩn dụ “Cuốn sách Thiên nhiên” như cầu nối trong việc đối thoại giữa Khoa học và Thần học. Bài viết này muốn tìm hiểu nguồn gốc của ẩn dụ này, và việc giải thích ẩn dụ trải qua lịch sử, cách riêng khi đối chiếu giữa Sách Thiên nhiên và Sách Kinh thánh, như hai cách thức Thiên Chúa mặc khải cho loài người. Vì khuôn khổ của tờ báo, chúng tôi chỉ lược tóm nội dung chứ không dịch nguyên văn.
Nguồn : “Book of Nature, Origin and Development of the Metaphor”. INTERS – Interdisciplinary Encyclopedia of Religion and Science, edited by G. Tanzella-Nitti, I. Colagé and A. Strumia, www.inters.org, DOI: 10.17421/2037-2329-2019-GT-1. Tác giả là giáo sư thần học tại Giáo hoàng Đại học Santa Croce, Rôma.
Lưu ý : Vì muốn đối chiếu hai cuốn sách, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “Sách Thiên nhiên” và “Sách Kinh thánh”, mặc dù biết rằng “Kinh” và “Sách” đồng nghĩa với nhau! Bản PDF ở cuối trang.
Dàn bài :
I. Việc giải thích ẩn dụ trải qua lịch sử: A. Nguồn gốc. B. Kinh thánh. C. Các giáo phụ. D. Thời trung đại. E. Thời phục hưng. F. Thời cận đại
II. Những hàm ngụ của ẩn dụ: 1/ Trong lãnh vực triết học. 2/ Đối với khoa học tự nhiên. 3/ Trong lãnh vực thần học

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2022

CÁC “LUẬT” VẬT LÝ

Thời sự Thần học – Số 88, tháng 5/2020, tr. 99-129.

_Micae Trần Văn Thành, O.P._ 

I. Từ ngữ: Tự nhiên và Vật lý; Luật
II. Các “luật” trong khoa học vật lý
  Quan điểm Aristote
  Định luật trong khoa học vật lý cổ điển: Newton
  Khoa học vật lý hiện đại

III. Một vũ trụ ngẫu nhiên hay tất yếu?
  Lý thuyết Big Bang
  Nguyên lý vị nhân
  Lý thuyết các vũ trụ song song

IV. Thiên Chúa và vũ trụ
V. Kết luận

Thứ Tư, 7 tháng 9, 2022

TIẾN HÓA SÁNG TẠO VÀO ĐỨC TIN CÔNG GIÁO

Thời sự Thần học - Số 2, Tháng 2/2009, tr. 70-82.

_Gioan Phêny Ngân Giang_ 


I. Những lý thuyết giải thích


Thật ra, không có một lý thuyết giải thích nào được xem là thoả đáng và có thể trả lời trọn vẹn cho vấn đề tiến hoá. Lý thuyết tổng hợp hay tân Darwin sau một thời gian thống trị, ngày hôm nay cũng cho thấy nhiều điều cần phải xem xét lại. Nói đúng ra, cha đẻ của thuyết tiến hoá không phải là Darwin (1809-1882) nhưng là Lamarck (1744-1829). Thuyết tiến hoá của Lamarck đã bắt đầu thành hình từ năm 1802. Lần đầu tiên, tính liên tục, sự thay đổi và tính chất phức tạp của các loài động vật trong sự tiến triển của nó được để ý và được hiểu biết như một mối liên hệ có chung nguồn gốc mà từ đó cái phức tạp nhất khởi đi từ cái đơn giản nhất. Tuy nhiên, sự giải thích mang tính cơ học về tiến hoá của Lamarck không được kinh nghiệm chấp nhận.

Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2022

HƯỚNG ĐẾN MỘT NỀN THẦN HỌC KITÔ GIÁO VỀ TIẾN HÓA

Thời sự Thần học - Số 2, Tháng 2/2009, tr. 70-82.

_An Phong_ 


Nhiều suy tư trong lãnh vực khoa học và tôn giáo về tạo dựng đang cố bằng mọi cách để hòa hợp hiểu biết về tạo dựng theo tôn giáo với hiểu biết về tiến hóa trong khoa học. Tuy nhiên, có một điều quan trọng nhất mà Kitô giáo nhắm đến đó là: ơn cứu độ tức là dẫn toàn thể nhân loại hiệp nhất với nhau. Hơn nữa, khi con người hòa giải với Thiên Chúa thì đó chính là cứu độ.

Như thế, suy tư về tạo dựng gắn liền với suy tư về cứu độ.

“Từ khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: Phải có… (St 1, 1-3a)

“Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải” (2Cr 5, 17-18)

Thứ Năm, 1 tháng 9, 2022

DỊCH LÝ- QUY LUẬT TIẾN HÓA DƯỚI CÁI NHÌN ĐÔNG PHƯƠNG

Thời sự Thần học - Số 2, Tháng 2/2009, tr. 58-69.

_Phaolô Nguyễn Hải Đăng_ 


Kinh Dịch-cấu hình tư duy Trung Quốc về vũ trụ luận


Kinh Dịch(易 經)là danh từ chỉ Chu dịch, là một trong tam dịch: Liên Sơn, Quy Tàng và Chu Dịch. Do vị trí đứng đầu Lục kinh của Nho gia nên được gọi là “Kinh Dịch”.

Về mặt từ nguyên, chữ “dịch” (易) hàm tích nhiều ý nghĩa khác nhau, nhưng có thể tóm kết trong bốn ngữ nghĩa chính: không thay đổi (bất dịch dã), giao hoán bổ khuyết cho nhau (giao dịch dã), biến hóa thay đổi (biến dịch dã) và dung dị mộc chân (dị giãn dã).[1]

Về cấu trúc, Kinh Dịch bao gồm hai phần chính: phần văn bản gốc (Chu dịch thượng hạ kinh – 周 易 上 下 經) và phần bình giải (Dịch truyện – 易 傳 ). Chu dịch thượng hạ kinh gồm sáu mươi bốn quẻ kèm theo lời bói. Mỗi quẻ đơn (đơn quái – 單卦) gồm ba vạch, vạch liền tượng trưng cho dương, vạch đứt tượng trưng cho âm. Sự kết hợp các quẻ đơn hình thành nên sau mươi bốn quẻ kép (trùng quái – 重 卦). Mỗi quẻ trùng quái gồm hai phần: phần trên gọi là thượng quái(上 卦), phần dưới gọi là hạ quái(下 卦)。. Thượng quái còn gọi là ngoại quái, hạ quái còn được gọi là nội quái. Nguyên tắc bói dịch là “nội vi chủ, ngoại vi khách – 内 為 主 外 為 客” (nội quái là phần trung tâm, quan trọng, ngoại quái là phần tùy phụ).

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2022

THUYẾT TIẾN HOÁ TRONG THẦN HỌC KITÔ GIÁO

Thời sự Thần học - Số 2, Tháng 2/2009, tr. 49-57.

_F.X. Trần Kim Ngọc, O.P._ 


Thuyết tiến hoá phải qua một thời gian dài mới có một chỗ đứng trong thần học Kitô giáo. Có nhiều hiểu nhầm về thuyết tiến hoá, và cũng có những quan niệm không chuẩn cho rằng Giáo hội Công giáo có vấn đề đối nghịch với thuyết tiến hoá. Những quan điểm như thế không theo sát với thực tế của sự tiến triển giữa khoa học và thần học Kitô giáo. Để hiểu rõ hơn về những quan niệm hơi lệch lạc về thuyết tiến hoá, xin đọc bài “Tìm hiểu thuyết tiến hoá” của tác giả George Sim Johnston trong cùng số báo này. Còn bài viết này cố gắng đưa ra những quan điểm thần học Kitô giáo về thuyết tiến hoá để giúp độc giả hiểu rõ hơn chỗ đứng của thuyết tiến hoá trong thần học Công giáo. Bài viết sẽ được tìm hiểu qua một số nét về thuyết tiến hoá dưới hai khuynh hướng thần hữu và vô thần (1). Lược qua một số tư tưởng của một số thần học gia nổi tiếng trong cái nhìn trung dung của người có niềm tin về thuyết tiến hoá (2). Và cuối cùng là tiếng nói của Giáo quyền về tương quan giữa đức tin vào khoa học nói chung, giữa đức tin và thuyết tiến hoá nói riêng (3).

Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2022

THÁI ĐỘ CỦA GIÁO HỘI VÀ MỘT SỐ THẦN HỌC GIA ĐỐI VỚI THUYẾT TIẾN HOÁ

Thời sự Thần học - Số 2, Tháng 2/2009, tr. 45-48

_Thanh Nhơn tổng hợp_ 


- Công đồng địa phương họp tại Colonia (Koln) năm 1860 phỉ bác giả thuyết cho rằng thân xác một con vật nào đó do sức tiến hóa tự nhiên đã tiến tới tầm vóc con người hiện đại chứ không cần một sự can thiệp nào của Thiên Chúa (Collectio Lacensis 5,292).
- Công đồng Vaticano I không mấy thiện cảm với thuyết tiến hóa, nhưng không kết án hoàn toàn thuyết đó, mà chỉ cần loại bỏ khía cạnh duy vật (Xc DS 3022/1802). Hơn nữa, Công đồng nhắc lại định tín của Công đồng Laterano IV (chống Albigenses) về con người như là thọ tạo thành bởi vật chất và tinh thần (DS 3002/1783; xc. DS 800/428).

- G. Mivart (1871): thân xác con người có thể phát sinh từ một thân xác loài vật tiến hóa dưới sự điều khiển của Thiên Chúa.

- M.D. Leroy o.p. (1891): thân xác con vật nào đã được Chúa phú cho một linh hồn và thành con người.

- J.A. Zahm c.s.c. (1896): thân xác con người có thể tiến hóa từ thân xác một con vật nào đó, không cần sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa.

Hai tác giả Leroy và Zahm gặp phản ứng không bằng lòng từ phía Tòa Thánh, chứ không bị kết án nhưng đã tự ý thâu hồi sách, rút lời phát biểu…

Sự kiện trên cho thấy rằng các nhà thần học lúc đó còn lúng túng, chưa biết giải thích thế nào về sự can thiệp của Thiên Chúa trong tiến trình của con người theo thuyết tiến hóa.

- Ủy ban Thánh Kinh của Tòa Thánh

Năm 1909, ủy ban này đề cập vấn đề “giá trị lịch sử của ban chương đầu sách Sáng thế ký”. Trong bảng kê khai những sự kiện liên can tới nền tảng của Kitô giáo do ban chương đầu tiên diễn tả, Ủy ban kể đến “peculiaris creatio hominis” (DS 394/2123).

Về cách hiểu bản văn này như thế nào, các nhà thần học cho rằng phải hiểu là có sự can thiệp đặc biệt của Chúa ngay trong việc hình thành thân xác con người. Nhưng bản văn không xác định cách thức can thiệp ấy.

Dù sao văn thư năm 1909 của UBTK không có tính cách tín lý mà chỉ nhằm bảo vệ sự an toàn về giáo lý.

- Trong giai đoạn 1909-1950, các nhà thần học vẫn tiếp tục áp dụng thuyết tiến hóa ôn hòa để giải thích nguồn gốc con người.

- Đức Giáo Hoàng Piô XII quả quyết “chỉ có người mới sinh ra người được”, rồi liền sau đó, khi đề cập tới thuyết tiến hóa, Ngài nhắc lại rằng: đến nay, chưa có gì hoàn toàn rõ ràng và chắc chắn về nguồn gốc con người, rồi tuyên bố cứ để khoa học tiếp tục công cuộc nghiên cứu nhằm đi tới những kết luận chắc chắn hơn… dưới ánh sáng của mạc khải. (AAS 1941, 506).

- Thông điệp HUMANI GENERIS (1950) nói rõ về nguồn gốc con người: Linh Hồn do Chúa trực tiếp dựng nên; về thân xác con người thì Giáo hội không cấm đề cập thuyết tiến hóa, miễn là phải thông hiểu cả khoa học lẫn thần học.

- Để giải đáp về việc Tạo dựng con người, nhà thần học KARL RAHNER đã cố gắng phân tích 3 ý niệm: chuyển biến (devenir), nguyên nhân (causalite), và hành động (action) rồi ứng dụng như sau:

Chúng ta có thể quan niệm việc con người xuất hiện trên mặt đất như sau: trong một hình thể sinh động tiền nhân loại đã thể hiện một sự vượt phóng, một cái bước qua, nhờ đó một cơ thể không có hồn thiêng đã trở thành 1 cơ thể có hồn thiêng. Nhưng bước vượt phóng đó không thể thực hiện chỉ do nguyên năng lực riêng của sinh vật tiền nhân loại; phải có động lực của hữu thể tuyệt đối nơi Thiên Chúa, nền tảng siêu việt của hữu thể và hành động nơi thụ tạo hữu hạn để hiện thể hoá cuộc chuyển biến này phát sinh ra một vật mới tức là con người Thiên Chúa không thay thế nguyên nhân đệ nhị. Thiên Chúa không có tác động trên cùng một bình diện với vật thụ tạo tiên nhân loại, như một nguyên nhân bán phân (cusalité partielle) thêm vào một nguyên nhân bán phân khác. Nhưng hành động sáng tạo của Thiên Chúa đã là nguyên nhân nền tảng siêu việt cho phép thụ tạo vượt sóng chính mình. (x. J. Feiner, Lorigine de l’homme trong bộ Mysterium Salutis Vol.7, Cerf 1971, trang 21-29).

- CÔNG ĐỒNG VATICANO II với HIẾN CHẾ “LỜI THIÊN CHÚA”

Vaticano II không trực tiếp đề cập đến thuyết tiến hoá, nhưng Hiến chế “Lời Thiên Chúa” xác nhận dứt khoát một lần nữa phạm vi của sách Thánh:

“Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm những chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh kinh ghi lại vì phần rỗi chúng ta” (s.11)

Hiến chế còn xác nhận rằng cần phân biệt nội dung và ngôn ngữ của Thánh kinh (s.12). Khi xác nhận ra phạm vi của Thánh Kinh, Công Đồng dứt khoát tránh cho chúng ta những vấn đề có thể phát xuất từ sự lẫn lộn phạm vi giữa Thánh kinh và khoa học.

Chúng ta có thể kết luận rằng trong vấn đề thuyết tiến hoá, thái độ của Giáo hội là tôn trọng phạm vi nghiên cứu của khoa học, nhưng không chấp nhận những kết luận vượt ngoài tâm thực nghiệm của khoa học khi chúng đi ngược với đức tin.

Dĩ nhiên phải nói ngay rằng thuyết tiến hoá mà quyền Giáo huấn đề cập tới là thuyết tiến hoá DUY LINH, Thuyết tiến hoá ÔN HOÀ (Évolutionisme Spirtualiste, Evolutionisme modéré) chấp nhận có sự can thiệp của Thiên Chúa chi phối hướng dẫn, nhất là trong việc tạo dựng linh hồn con người. Còn thuyết tiến hoá CỰC ĐOAN (Evolutionisme radical) phủ nhận mọi can thiệp của Thiên Chúa lúc con người xuất hiện, hoặc thuyết tiến hoá của trường phái DUY VẬT BIỆN CHỨNG phủ nhận sự khác biệt căn bản giữa tinh thần và vật chất thì kể là còn xa với Đức tin Kitô giáo.

Kinh thánh quả quyết Thiên Chúa tạo dựng cả CON NGƯỜI. Theo ý trọn vẹn của Kinh thánh phải hiểu: con người, cả hồn và xác, đều được Thiên Chúa tạo dựng. Thứ đến, nếu chúng ta quan niệm như từ xưa đến nay, sự can thiệp của Thiên Chúa và việc tạo dựng linh hồn như một tác động riêng rẽ của một mình Thiên Chúa, từ trên xuống hay từ ngoài vào, không liên quan gì tới sinh hoạt của thụ tạo thì chúng ta quan niệm không đúng về hành động của Thiên Chúa là nguyên nhân nền tảng và siêu việt của mọi sinh hoạt thụ tạo. Và như vậy, việc con người xuất hiện được quan niệm như một “phép lạ” đột xuất, do một mình Thiên Chúa thực hiện, có tính cách ngoại lai.

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2022

THẦN HỌC VỀ THUYẾT TIẾN HOÁ

Thời sự Thần học - Số 2, Tháng 2/2009, tr. 38-44.

_Quốc Văn, O.P._ 


The author is a Roman Catholic theologian,
specializing with systematic theology.
Một đứa trẻ khi có trí khôn, nó nhận ra mình là đứa con nuôi đã được cha mẹ đón về từ cô nhi viện. Cho dù nó được chiều chuộng, yêu thương, nhưng nơi sâu thẳm tâm hồn nó vẫn canh cánh trong lòng ai là cha mẹ đẻ của mình. Có thể nói, từ khi có con người hiện hữu, thì vấn nạn về nguồn gốc của con người, của vũ trụ đã được đặt ra. Cả nhân loại này đều mang trong mình một nỗi băn khoăn tìm về nguồn cội của sự sống. Những suy tư nghiêm túc về vấn nạn này đã làm hao tốn bao giấy mực. Trong phạm vi của bài viết này, người viết chỉ xin đóng góp thêm một chút nỗ lực vô cùng nhỏ bé, mong rằng dẫu cho có tốn thêm chút giấy mực nữa thì cũng không phí phạm vì biết rằng công việc tìm kiếm này của nhân loại chưa kết thúc và hành trình còn diệu vợi vô cùng. Chúng tôi xin được bắt đầu khởi đi từ nhãn giới vô thần.

Từ nhãn giới vô thần…


Theo dòng lịch sử, có rất nhiều giả thuyết nhằm chứng minh nguồn gốc của sự sống nói chung và cụ thể là nguồn gốc của loài người. Một trong những giả thuyết nổi lên vào đầu thế kỷ XIX, có sức chi phối mạnh mẽ, và đặc biệt có sức ảnh hưởng rất lớn đến những ai mang nhân sinh quan của chủ thuyết vô thần, đó chính là thuyết tiến hóa của nhà tự nhiên học người Anh, Charles Robert Darwin (1809-1882).

Vào thời của Darwin, có chủ thuyết cho rằng các sinh vật trên trái đất đã được tạo ra theo thứ tự kế tiếp nhau, và rồi mỗi loài đã bị một tai ương nào đó huỷ diệt. Cơn đại hồng thuỷ, thảm họa cuối cùng trên trái đất, đã quét đi tất cả sự sống, trừ những sinh vật được đưa lên con thuyền của ông Nôê. Không tán đồng quan điểm này, sau nhiều quan sát, Darwin cho rằng tất cả các loài sinh vật có liên quan đều xuất phát từ một tổ tiên chung. Ông nhận thấy có một số hoá thạch rất giống với những sinh vật đang còn hiện hữu trên cùng địa điểm. Ngoài ra ông cũng để ý thấy rằng có những loài riêng biệt như rùa, chim họ sẻ…, không hoàn toàn giống nhau. Từ đó, Darwin cho rằng do nguồn thức ăn trên thế giới cạn kiệt nên tất cả các loài ngay từ khi còn nhỏ đã phải cạnh tranh gay gắt để sinh tồn. Những loài nào sống sót sẽ tiếp tục sinh con đẻ cái và có xu hướng biến hoá ít nhiều về diện mạo cơ thể trong quá trình chọn lọc tự nhiên, và sau đó những biến thể này sẽ được truyền cho thế hệ con cháu. Mỗi loài sẽ phát triển theo hướng thích nghi với môi trường sống cụ thể, và quá trình này diễn ra dần dần, liên tục, là nguồn gốc tiến hoá của sinh vật.

Thực ra, đã có nhiều tư tưởng về sự Tiến Hóa trước thời của Darwin. Tới năm 1859 Darwin mới trình bày học thuyết Tiến Hóa trong cuốn “Về Nguồn Gốc Các Chủng Loại Do Chọn Lọc Tự Nhiên” (On the Origin of Species By Means of Natural Selection). Và sau đó năm 1871, ông xuất bản cuốn “Nguồn Gốc Con Người” (The Descent of Man). Theo học thuyết Tiến Hóa của Darwin, nguồn gốc con người xuất phát từ một loài vượn. Tuy nhiên, nếu đi đến tận cùng kỳ lý, Darwin vẫn chưa làm thỏa mãn được vấn nạn loài vượn từ đâu mà có. Nói cách khác, vấn nạn về nguồn gốc vũ trụ vẫn còn là một ẩn số.

Sau những nghiên cứu của Darwin, năm 1925, Georges Lemaître, nhà vật lý người Bỉ (1894-1966) đã phát hiện ra rằng vũ trụ không phải là tĩnh, mà là động. Vũ trụ đang giãn nở từng giây phút. Khẳng định này của ông dựa trên thuyết Tương Đối tổng quát của Albert Einstein. Nhà thiên văn Edwin Hubble đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu hiện tượng này. Năm 1929, ông công bố định luật mô tả sự biến mất của những thiên hà mà ông quan sát qua kính viễn vọng. Định luật Hubble là định luật đầu tiên khẳng định trực tiếp sự giãn nở của vũ trụ mà Lemaitre đã nói từ trước. Trên cơ sở này ông đưa ra giả thuyết rằng vũ trụ có lẽ được tạo ra từ rất lâu, do vụ nổ của một nguyên tử đầu tiên rất cô đặc.

Ý tưởng về một “vụ nổ” tuy mới lạ nhưng không phải là được nhiều người mau mắn đón nhận. Nhà vật lý Fred Hoyle đã sáng tác ra thuật ngữ “Big-bang” để giễu cợt ý tưởng về “vụ nổ tiên khởi” này. Nghịch lý thay, nửa thế kỷ sau, tuy Hoyle cũng chưa đồng tình lắm về ý tưởng của mình, nhưng thuật ngữ “Big-bang” do ông đề xuất đã phổ biến.

Nhiều người vô thần đương thời đã “tuyên xưng đức tin” vào học thuyết tiến hóa của Darwin và giả thuyết Big-bang một cách mạnh mẽ. Robert G. Ingersoll (1833-1899), một tác giả XIX được gọi là thế kỷ của Darwin. Ông ví von rằng, một bên viết tên của Charles Darwin, và bên kia viết tên của mọi nhà thần học từ trước tới nay, và từ tên của Darwin đã tỏa ra nhiều ánh sáng hơn là ánh sáng của tất cả các nhà thần học gộp chung lại. Theo ông, thuyết tiến hóa đã cắt bỏ cái vết tích cuối cùng của Kitô giáo ra khỏi những người có đầu óc. Ông còn cho rằng Thánh Kinh được viết ra do sự ngu si – với sự dọa dẫm để làm cho sợ hãi.

Kinh thánh dạy rằng con người đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế con người được tạo dựng một cách hoàn hảo. Robert G. Ingersoll cho rằng Darwin đã chứng minh được sự sai lầm của tín lý này. Darwin chứng minh rằng con người, trải qua nhiều thời đại, đã không ngừng tiến bộ. Cái vườn Eden theo như Kinh thánh chỉ là huyền thoại của kẻ ngu đần. Giáo lý về tội tổ tông chẳng có nền tảng nào dựa trên sự kiện. Chuộc tội là một sự vô nghĩa. Chẳng có chuyện con rắn quyến rũ con người ham muốn, và con người cũng chẳng hề “sa ngã” bao giờ.

Robert G. Ingersoll cho rằng Charles Darwin đã phá sập Kitô giáo! Đối với ông, Kitô giáo chẳng còn gì khác ngoài một đức tin đặt vào cái không thể xảy ra và đã không hề xảy ra. Ông khẳng định rằng Kitô Giáo và khoa học là kẻ thù của nhau: Một bên là mê tín, một bên là sự kiện. Một bên đặt nền tảng trên sự sai lầm, một bên đặt nền trên sự chân thật. Một bên là kết quả của sự sợ hãi và đức tin, bên kia là sự tìm tòi và hiểu biết của lý trí.[1]

Thoáng qua những ý tưởng trên ta thấy nổi cộm nơi đây một thái độ “hộ giáo” cho những học thuyết vô thần và dĩ nhiên là rất vụng về do những bất cập về quan điểm phê bình, nhất là quan điểm về mối tương quan giữa đức tin và khoa học. Thực ra, chẳng bao giờ Giáo hội quan niệm Kitô giáo và khoa học là kẻ thù của nhau như luận điệu của Robert G. Ingersoll. Tuy nhiên, khi suy tư một cách nghiêm túc về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc con người và vấn đề tiến hóa, các nhà thần học Kitô giáo thời nay không thể dửng dưng với những nan đề của thời đại.

… Đến niềm tin Kitô giáo


Đặt vấn đề về thuyết tiến hóa, các thần học gia Kitô giáo không chỉ đơn thuần trả lời cho các học thuyết vô thần về niềm tin và niềm hy vọng của mình. Hơn thế nữa, các thần học gia cũng cần phải tìm hiểu xem các học thuyết nói gì, và đâu là điểm có thể đối thoại để tìm ra chân lý. Vấn đề thuyết tiến hóa cần phải được tìm hiểu với cái nhìn toàn diện không chỉ về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc con người, nhưng còn phải chấp nhận về thực tại tối hậu của nhân loại, cùng đích của thế giới, ý nghĩa của sự hiện hữu và phẩm giá con người, sự thiện tuyệt đối, sự sa ngã, mầu nhiệm nguyên tội, … và ơn cứu độ của con người.

Thực tế cho thấy, cho tới cuối thế kỷ XX, phần lớn các thần học gia khi bàn về những vấn đề trên vẫn bàng quan với những tư tưởng của Charles Darwin, Albert Einstein, Edwin Hubble và Fred Hoyle như thể những vị này chưa từng xuất hiện trên cõi đời này. May thay, tiền bán thể kỷ XX, người ta thấy nổi bật tư tưởng của Pierre Teilhard de Chardin, một linh mục dòng Tên; đồng thời với tư tưởng của Paul Tillich, một triết gia và thần học gia người Đức theo hệ phái Tin Lành Luther. Có thể coi hai vị này như là những ngôn sứ về vấn đề thuyết Tiến Hóa. Tư tưởng của Teilhard mang tính cách khai mào, còn công của Tillich chính là hệ thống hóa tư tưởng của ông.

Trong giới hạn của bài viết, chúng tôi chỉ xin giới thiệu ở đây vài nét chủ đạo về tư tưởng của Teilhard. Ông đã đi trước các nhà thần học trong việc vận dụng những tư tưởng của thuyết Tiến hóa để nhìn về Thiên Chúa và từ đó tìm hiểu về ý niệm thời gian, không gian. Hơn thế nữa, Teilhard nhấn mạnh, hình ảnh mới mang tính khoa học về vũ trụ không chỉ là chụp lại vũ trụ mênh mông rộng lớn này, mà còn giúp chúng ta hiểu biết về bản chất của vũ trụ nữa. Khoa học mô tả rõ ràng vũ trụ như một câu truyện và ghút thắt vấn đề chính là yếu tố tự nhiên. Teilhard cho rằng cả thế giới này là một cuộc tiến hóa, và dĩ nhiên nó có liên hệ trực tiếp tới câu truyện vũ trụ.

Với cái nhìn của Teilhard, vũ trụ không phải là cái áo may sẵn mặc vào cho vạn vật, nhưng là một sự sáng tạo. Tuy nhiên hạn từ “sáng tạo” ở đây không hiểu như một hành động đã hoàn tất, nhưng như một tiến trình. Vũ trụ ở đây tạm ví như một hạt giống đang đâm chồi nảy lộc. Thế giới vẫn đang được hình thành.[2] Ý tưởng tiến hóa của Teilhard được nhìn theo ý nghĩa sinh học đồng thời được áp dụng cho tiến trình vận hành của vũ trụ. Cả vũ trụ này rõ ràng đang chuyển động theo một hướng tiến triển phức tạp đã được sắp đặt.[3] Ta thấy điều nổi bật ở đây là nhãn giới mang tính tôn giáo về thiên nhiên, về sự hiện hữu của con người trong một vũ trụ đang được hình thành. Teilhard nhấn mạnh rằng vấn đề tiến hóa đòi hỏi tư tưởng của ta phải quay về với Thiên Chúa. Mục đích tối hậu sự vận hành của vũ trụ phải quy hướng về Đấng là “Omega”.

Omega là chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, ta không chỉ hiểu Thiên Chúa như là Đấng siêu việt, nguồn gốc của thế giới, vượt trên thế giới, nhưng còn là Đấng đã nhập thể vào thế giới, và làm cho thế giới này tiến hóa hướng đích. Teilhard hướng chúng ta nhìn về việc tiến hóa của vũ trụ trong chiều kích Kitô học. Cuộc vận hành của vũ trụ là một hành trình tiến về hiệp nhất với đầu trong Đức Giêsu Kitô. Cũng như thánh Phaolô, Teilhard quan niệm việc cứu độ cũng chính là một cuộc sáng tạo mới của vũ trụ trong Đức Kitô.

Theo Teilhard, câu trả lời của niềm tin tôn giáo về vấn đề tiến hóa đã đụng chạm đến chiều kích sâu thẳm, chiều kích hữu thể của vũ trụ, điều mà khoa học chưa hoàn toàn làm thỏa mãn đầu óc con người. Thần học ngày nay hay dùng hạn từ của Aristote: “nguyên nhân đệ nhất”- nguyên lý chuyển động của các vật trong quá khứ, để nói về Thiên Chúa. Điều này chưa đủ, theo Teilhard, đối diện với vấn đề tiến hóa, chúng ta còn phải thấy Thiên Chúa như là Đấng lôi kéo thế giới tiến về phía trước, tiến về tương lai. Thiên Chúa không chỉ là Alpha mà còn là Omega nữa. Tuy nhiên, sau Darwin và sau cái nhìn mới về vũ trụ (Tân vũ trụ học - new cosmology), chúng ta phải nói rằng Thiên Chúa là Alpha ít hơn là Omega.

Vẫn còn đó những vấn nạn về ý nghĩa sự hiện hữu của con người, ý nghĩa của lịch sử nhân loại, công bằng xã hội, việc giải thích Kinh thánh, ơn cứu độ, ngày cánh chung… Từ trước tới nay, ơn cứu độ và ngày cánh chung vẫn được thần học giải thích như quang cảnh của một mùa gặt hái các linh hồn hơn là hành trình tiến về sự viên mãn của thế giới. Hơn thế nữa, với lối suy tư của nền thần học hậu hiện đại, mối nguy của việc ly dị giữa thần học và thế giới ngày càng lớn. Không thể có những suy tư thần học đúng nghĩa nếu tách con người ra khỏi mối tương quan ba chiều: với Chúa, với tha nhân và với vũ trụ. Teilhard nhấn mạnh, trong việc suy tư thần học, Kitô giáo cần phải cởi mở chính mình để tiếp cận với những phạm trù mới.

Còn vấn đề tội nguyên tổ thì sao? Ơn công chính hóa là gì?...Thần học kinh điển vẫn lý giải sự sa ngã của nguyên tổ quy về sự tự do và trách nhiệm cá nhân của con người. Và thánh Phaolô (Xc. 2Cr 5,17; Gl 6,15; Rm 12,2; Cl 3,10; Ep 4,23) cho chúng ta thấy công chính hoá là cải tạo con người, cho họ được tái sinh, nghĩa là trút bỏ con người cũ để sống con người mới. Thánh Cyprianô gọi “ngày rửa tội là sinh nhật thứ hai, làm ta nên người mới”. Khi suy tư thần theo lối nhìn về sự tiến hóa, nguyên tội có thể coi như một “cản trở” trong tiến trình vận hành của vũ trụ. Khi nguyên tổ phạm tội, sự vận hành vũ trụ bị đình trệ, và chỉ trong Đức Kitô - vua vũ trụ, vũ trụ mới được cứu độ, được phục hồi, và đi vào tiến trình của cuộc sáng tạo mới. Việc sáng tạo này diễn ra trong suốt dòng lịch sử của nhân loại và lịch sử của cả vũ trụ.

Kết luận


Nói tóm tại, thần học về thuyết tiến hóa nhìn nhận rằng vũ trụ này chưa hoàn tất. Và việc cứu độ, trên hết chính là việc chữa lành tấn thảm kịch (không phải chỉ là hậu quả do tội của con người) gắn liền với vũ trụ trong suốt cuộc hành trình. Chúng ta vẫn đang canh cánh trong lòng mong đợi trời mới, đất mới. Và muôn vật vẫn đang rên xiết chờ đợi ngày Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang cho con cái Người. Cuộc tiến hóa của vũ trụ đã bắt đầu, đang vận hành và tiến dần đến sự viên mãn, tiến đến việc kết hợp trọn vẹn với đầu là Đức Giêsu Kitô.

Tài liệu tham khảo

  • Drummy, Michael. Being and Earth: Paul Tillich’s Theology of Nature. Lanham, Md.: Univ. Press of Amenica, 2000.
  • Pannenberg, Wolfhart. Toward a Theology of Nature. Ed. Ted Peters. Louisvills: Westminster John Knox, 1993.
  • Teilhard de Chardin, Pierre. The Future of Man. Trans. Norman Denny. New York: Harper Colophon Books, 1964.
  • ____. Christianity and Evolution. Trans. Rene Hague. New York: Harcourt Brace, 1969.
  • ____. Toward the Future. Trans. Rene Hague. New York: Harcourt Brace Jovanovich 1975.
  • ____. The Human Phenomenon. Trans. Sarah Appleton-Weber. Portland, Ore.: Sussex Academic Press, 1999.
  • Tillich, Paul. The Shaking of the Foundations. New York: Charles Scribner’s Sons, 1948.
[1] Xc. Nguồn gốc con người: Thuyết tiến hóa (2) - http://dongtac.net/spip.php?article1239 (Truy cập 6.6.2009).
[2] Quan điểm này của Teilhard không có gì đối nghịch với Charles Darwin, Georges Lemaître, Edwin Hubble và Fred Hoyle khi các vị này cho rằng vũ trụ không phải ở thể tĩnh nhưng luôn linh hoạt, giãn nở.
[3] Tiến trình vận hành của vũ trụ đi theo hướng tiến hóa tiệm tiến, từ một nguyên tử, đến các phân tử; từ một đơn bào đến đa bào; từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao, động vật có xương sống, động vật có vú … và đến con người.

Thứ Hai, 22 tháng 8, 2022

VŨ TRỤ VÀ SỰ SỐNG ẨN TÀNG ĐẤNG SIÊU NHIÊN

Thời sự Thần học - Số 2, Tháng 6/2009, tr. 27-37.

_Phaolô Cao Chu Vũ, O.P._ 


Năm 1859, nhà sinh vật học Charles Darwin công bố tác phẩm “The Origin of Species” (Nguồn gốc các loài), trình bày thuyết tiến hoá của các loài thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Ngay tức khắc, nó đã gây nên những cuộc tranh luận gay gắt từ nhiều phía xoay quanh học thuyết mới mẻ này. Có lẽ, cuộc tranh luận giữa đức tin và khoa học là gay gắt hơn cả. Chân lý Kinh Thánh viết: con người được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26), nghĩa là nó hiện hữu như một hữu thể ngôi vị huyền nhiệm của sự kết hợp giữa xác và hồn, giữa siêu nhiên và tự nhiên. Chân lý này liệu có thể tương hợp với thuyết tiến hoá cho rằng loài người có nguồn gốc từ loài khỉ, và xa hơn nữa là từ những loài động vật cấp thấp hơn thông qua quá trình chọn lọc “tình cờ” của tự nhiên?

Từ đó đến nay, xét trên phương diện nghiên cứu khoa học, người ta vẫn chưa có câu trả lời nào thoả đáng về nguồn gốc loài người và các loài sinh vật. Nhưng với ảnh hưởng mạnh mẽ của thuyết tiến hoá và những khám phá mới của khoa học, người ta đã phải đặt lại nhiều vấn đề về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc sự sống trên trái đất, các loài sinh vật có mối liên hệ với nhau như thế nào? Một loài rất đặc biệt trổi vượt thế giới tự nhiên là loài người có tương quan với thế giới này như thế nào? v.v…

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2022

TÌM HIỂU THUYẾT TIẾN HOÁ

Thời sự Thần học – Số 2, Tháng 2/2009, tr. 18-26.

Phan Kim chuyển ngữ (Nguồn: Russell Shaw (ed.), Our Sunday Visitor’s Encyclopedia of Catholic Doctrine, Our Sunday Visitor Publishing Division, Huntington-Indiana, 1997, pp.219-224.)

_George Sim Johnston_


Monkeyana 1961. Hí họa trong tạp chí Punch
về thuyết Tiến hoá của Darwin
(British Library Board)
Không có một cuốn sách nào gây ảnh hưởng lên cách con người hiện đại suy xét về chính mình như cuốn sách mang tựa đề “The Origin of Species” (Nguồn gốc Các loài) được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1859 của Darwin. Con người là sản phẩm của một quá trình mù quáng và duy vật; quá trình này không có con người trong tâm thức, quan niệm này là một phần trong bầu khí trí thức mà tất cả chúng ta đang hít thở. Ngay cả những người Công giáo chính thống có thể gặp khó khăn khi họ cố gắng dung hoà trình thuật sáng tạo trong sách Sáng thế với điều mà họ cho rằng khoa học đã chứng minh về nguồn gốc vũ trụ và những vật thể có sự sống.

Khi tìm hiểu lý thuyết như lý thuyết của Darwin, người Công giáo phải đứng vững trong mệnh đề cho rằng không thể có xung đột thực sự giữa đức tin và khoa học. Cái nguy hiểm xảy ra là khi các nhà khoa học lấn sân xâm phạm vào lãnh vực thần học và ngược lại, các nhà thần học đã lấn sân vào lãnh vực khoa học. Sự kiện Galileo là một nhắc nhở có giá trị về điều có thể xảy ra khi một số thành phần trong Giáo hội cứ đinh ninh như đinh đóng cột cái giả thuyết khoa học dựa vào nền tảng Kinh Thánh tiên thiên. Nếu những vị hồng y khi kết án Galileo mà đã lưu tâm hơn đến Augustinô và Tôma Aquinô, cả hai vị đều quan niệm rằng Kinh Thánh không dạy một hệ thống thiên văn học, thì vết rạn nứt xảy ra giữa tôn giáo và khoa học vào thế kỷ XVII có thể đã tránh được.

Mặc dù ngày nay thỉnh thoảng có cuộc tranh cãi công khai gay gắt giữa các nhà khoa học về hầu hết mọi khía cạnh của lý thuyết tiến hoá. Cuộc tranh luận không phải về chính sự tiến hoá, nhưng là về những cách thức mà qua đó sự tiến hoá đã xảy ra. Những loại hình sự sống xuất hiện qua một sự ngẫu nhiên mù mờ, hay không phải như thế. Lý thuyết của Darwin về chọn lọc tự nhiên là lý thuyết duy nhất có giá trị với mục đích là nhằm giải thích cách làm sao giống người thông minh (homo sapiens) và những loài khác là kết quả của những sức mạnh tự nhiên. Đây là lý do tại sao cuộc tranh luận về lý thuyết của Darwin, chứ không phải là chính sự tiến hoá, quan trọng đến nhường nào. Hơn thế nữa, chính lý thuyết của Darwin, chứ không phải là lý thuyết khác, đã được giảng dạy trong trường học. Cái thất bại của hầu hết các tác phẩm viết về chủ đề để phân biệt giữa ‘tiến hoá’ và ‘thuyết Darwin’ (Darwinism) chỉ gây ra vấn đề tranh cãi mà thôi.

Dù tên tuổi của ông đồng nghĩa với lý thuyết, nhưng ý tưởng về tiến hoá của các loại hình sự sống không bắt nguồn từ Darwin. Nó đã được bắt đầu với người Hy Lạp cổ đại, được thánh Augustinô tiếp tục suy tư, và được triển khai thành giả thuyết khoa học do nhà động vật học người Pháp tên là Buffon sống trước tác phẩm “The Origin of Species” của Darwin một thế kỷ. Sự đóng góp đó đã mở ra một kỷ nguyên mới của Darwin là nhằm cung cấp một cách giải thích đáng hoan nghênh về cách làm sao tiến hoá đã diễn ra, một loại tiến hoá thuần tuý mang tính cơ học không đá động gì đến Thiên Chúa. Đây là lý thuyết của ông về chọn lọc tự nhiên.

Chọn lọc tự nhiên


Nói cách ngắn gọn là lý thuyết của Darwin cho rằng các sinh vật sinh ra con cháu hơi khác với bố mẹ chúng, và chọn lọc tự nhiên sẽ ưu đãi sự sống còn của những cá thể này mà những tính chất riêng biệt của chúng (răng nhọn hơn, chân có vuốt có thể nắm được, và những điểm tương đồng) làm cho chúng thích nghi tốt hơn với môi trường sống của chúng. Vì thế, sự tiến hoá theo Darwin là một quá trình gồm hai giai đoạn: sự biến dị cách tuỳ tiện như để mổ xẻ con mồi, chọn lọc tự nhiên như sức mạnh hướng dẫn.

Darwin đã từng tập trung vào lý thuyết này, ông dành rất nhiều thời gian quan sát những người nuôi chim bồ câu làm việc gần nhà ông ở Kent. Năm mươi trang đầu trong cuốn sách “The Origin of Species” chủ yếu nói về loài chim bồ câu, trong đó có mười trang làm người đọc ngạc nhiên. Darwin lưu ý rằng qua việc gây giống có chọn lọc, loài chim bồ câu có thể được gây giống để phát triển một số đặc tính như mong muốn: màu sắc, chiều dài đôi cánh và v.v... Ông đã loại suy từ những quan sát này khái niệm cho rằng có quá nhiều loài có thể tiến hoá bằng một quá trình chọn lọc giống như thế, chỉ có một sự khác biệt là ‘người gây giống' là chính tự nhiên, là sự sàng lọc những cái yếu nhất và theo đuổi cái tinh tế nhất nhằm để truyền lại cho hậu thế. Qua quá trình đơn giản này, Darwin khẳng định rằng một số loại hình sự sống không rõ nguồn gốc đang trôi nổi trong nồi súp nguyên thuỷ được tiến hoá và được đa dạng hoá thành mạng lưới bao la gồm cây cối và động vật như chúng ta thấy ngày nay.

Nhưng một cốt yếu quyết định ở đây, một điểm mà khoa phê bình khoa học của Darwin thường làm. Điều Darwin đã quan sát trong những nơi gây giống là ‘sự tiến hoá vi mô’ (micro-evolution). Sự tiến hoá ở tầm vi mô ám chỉ những thay đổi nhỏ diễn ra trong một loài nào đó trải qua dòng thời gian. Tiến hoá như thế rất thông dụng. Chẳng hạn, người ngày nay cao hơn người sống cách đây cả trăm năm. Nhiều loài chim sẻ ức đỏ mà Darwin quan sát trên đảo Galapagos là một minh hoạ khác về sự tiến hoá vi mô. Tuy nhiên, với chứng cứ thực nghiệm không trực tiếp, Darwin cho rằng trải qua thời gian lâu dài, những thay đổi nhỏ này có thể bổ sung vào tiến hoá vĩ mô (macro-evolution), một loài tiến hoá gồm những bước nhảy vọt rất lớn – chẳng hạn từ những amip (amoeba) đến các loài bò sát có vú. Có hai nơi cần xem xét để xác định lý thuyết của Darwin là: dấu vết nơi hoá thạch và những kinh nghiệm gây giống với động vật. Nếu lý thuyết đúng, thì dấu vết trên hoá thạch phải cho thấy rất nhiều sự thay đổi tiệm tiến rất nhỏ giữa những loài xa xưa và những loài sau này. Tuy nhiên, Darwin nhận thức rằng dấu vết trên hoá thạch trong thời đại của ông không cho biết điều gì về chủng loại cả. Có những sự không liên tục rất lớn giữa động vật cao và những nhóm thực vật. Tiếp đó, ông đặt tiêu đề chương sách cho đề tài “Về sự bất toàn của dấu vết địa chất” (On the imperfection of Geological Record). Một khối lượng rất lớn những hoá thạch đã được khai quật từ khi, và bất kỳ điều gì, mà người ta làm cho sáng rõ hơn những lỗ hỏng đã đảo lộn Darwin. Stephen Jay Dould, giáo sư sinh vật học dạy tại Đại học Harvard gọi việc thiếu vắng sự thay đổi tiệm tiến này nơi dấu vết hoá thạch là “bí mật nghề nghiệp” (trade secret) của ngành khảo cổ học hiện đại.

Dấu vết hoá thạch cho chúng ta biết chính xác cái điều mà nó đã trình bày trong thời đại của Darwin: các loài xuất hiện cách ngẫu nhiên trong một tình trạng đã phát triển đầy đủ, và thay đổi ít hoặc là chẳng có thay đổi gì trước khi biến mất (99 trong số 100 loài đã bị tuyệt chủng). Khoảng 550 triệu năm trước đây, vào thời đầu kỷ Cambri, đã có một vụ nổ những loại hình sự sống phức hợp – những loài động vật thân mềm, những loại sứa, bọ ba thuỳ – vì chúng không phải là một loại hình tổ tiên đơn lẻ có thể được tìm thấy nơi các hốc đá xa xưa hơn. Con người từ Sao Hoả đang nhìn thấy dấu vết hoá thạch theo sau nói rằng loài này bị loài khác thay thế, hơn là tiến hoá thành loài của chúng.

Những bức tranh trong các viện bảo tàng và sách giáo khoa, những biểu đồ trình bày cách những con người to lớn dần dần tiến hoá từ những con ngựa nhỏ bé muốn nói gì? Những bức chân dung này mang tính phỏng đoán, và chúng đang bị loại bỏ từ từ. Thực tế, các nhà khảo cổ học tìm thấy một loại hoá thạch của những loài đã bị tuyệt chủng và cố tạo ra một viễn cảnh liên quan đến nó với một động vật sau này hoặc xa xưa hơn; tuy nhiên họ không bao giờ tìm thấy những hình thức quá độ mà lý thuyết Darwin đòi hỏi.

Một loạt những bức tranh tại Viện bảo tàng Lịch sử Thiên nhiên Hoa Kỳ trưng bày ‘sự tiến hoá’ của các loài ngựa, “eohippus” nhỏ xíu đang từ từ biến thành “equus” hiện đại, đã bị loại bỏ một cách âm thầm bởi những người theo thuyết Darwin chính thống. “eohippus” vẫn là “eohippus”, nó được theo sau hoặc đi theo sau bởi nhiều loài ngựa, một số to hơn, một số nhỏ hơn. Tuy nhiên, bảng biểu đồ thì được in lại rộng hơn trong các sách giáo khoa. John Bonner, giáo sư sinh vật học tại Đại học Princeton, gọi hầu hết những biểu đồ về dòng dõi tiến hoá trong sách giáo khoa là “một khối những định kiến cay cú không có sự hậu thuẫn”. Tổ tiên loài người thường thay đổi giống như thời tiết vì một số hoá thạch “hominid” được trộn lẫn vào đó. Có giống người Java, người Piltdown, người Nebraska, “Ramapithicus”, và nhiều giống người khác đã bị từ chối vì lý do này hay lý do khác. Hai gương mặt tiêu biểu trong ngành khảo cổ học về loài người ngày nay là Richard Leakey và Donald Johansen (người khám phá ra giống người “Lucy”) hoàn toàn không chấp nhận đối với tổ tiên loài người. “Autralopithicus Afarensis” đã được trình bày trong sách giáo khoa với những khuôn mặt xếp hàng theo thứ tự từ loài đười ươi đến loài người, phụ thuộc vào bề mặt của chúng mà người hoạ sĩ vẽ. Richard Lewontin, giáo sư động vật học và di truyền học tại Harvard, tóm kết như sau: “Chúng ta không biết gì về tổ tiên của loài người… Mặc dù một số nhà khảo cổ học đưa ra những khẳng định hấp dẫn và khả quan thì không có loài hoá thạch hominid nào có thể được hình thành như tổ tiên trực hệ của chúng ta.”

Những lời phê bình khoa học


Vì chúng ta không nhìn thấy những loài này biến đổi thành loài khác nơi hoá thạch, chỉ có duy nhất một nơi cần xem xét là kinh nghiệm gây giống. Ở đây, có bằng chứng chống lại Darwin. Những người gây giống có thể làm thay đổi màu sắc của loài chim bồ câu hoặc kích cỡ của một con bò cho đến một mức nào đó, chỉ có họ mới có thể đi xa đến mức như vậy. Thực tế, tất cả những người gây giống đều có kinh nghiệm như vậy: nếu họ cố gắng đi xa đến mức như thế theo một hướng nào đó, thì động vật hoặc thực vật cũng trở nên cằn cỗi (không sinh hoa kết quả) hoặc trở về với nguyên mẫu.

Người gây giống danh tiếng nhất phải kể đến là Luther Burbank, đã không tìm thấy bằng chứng nào về tính chất mềm dẻo không bị giới hạn của các loài mà lý thuyết của Darwin đòi hỏi và đã thừa nhận Luật trở về mức Trung bình (Law of Reversion to Average). Richard Goldschmidt, nhà di truyền học hàng đầu dạy tại Berkeley, đã dành nhiều thời gian quan sát những sự biến đổi của những loài ruồi giấm (fruit fly) và đã kết luận rằng các nhà sinh vật học đã phải từ bỏ ý tưởng của Darwin là ý tưởng cho rằng sự tích tụ của những thay đổi “vi mô” tạo nên các loài mới. Nếu có sự biến đổi nghìn điểm trong hệ thống gien của loài ruồi giấm, một sự bất khả thi mang tính thống kê, thì nó vẫn là loài ruồi giấm.

Goldschmidt đã cho xuất bản một danh mục nổi tiếng về mười bảy tiết mục – gồm răng, các loại lông, bộ máy gây độc của loài rắn, sừng cá voi – và đã thách thức bất cứ ai giải thích cách làm sao chúng đã có thể tiến hoá dựa vào nền tảng từng bước một. Ông chỉ ra rằng nếu chọn lọc tự nhiên là một cơ chế đối với những biến đổi lớn nơi các loài, thì tất cả mọi loại hình tạm thời đều có ích cho cơ thể. Vấn đề về việc giải thích tính hữu ích của các cơ quan mới phôi thai – năm phần trăm của thị giác chẳng hạn – đã là một cơ quan vững chắc đối với những người theo thuyết Darwin. Otto Schindewolf, nhà khảo cổ nổi tiếng người Đức và là người chống khuynh hướng Darwin, đã từ chối ngay lập tức ý tưởng cho rằng những loại hình quá độ có thể đã được tìm thấy và thậm chí đã được phác hoạ.

Schindewolf, chết vào năm 1971, đã không được biết đến một cách rộng rãi tại các nước Anglo-Saxon. Trong khi đó Goldschmidt lại tuỳ thuộc theo chiến dịch bôi nhọ dã man nhằm quảng cáo rằng sự tiến hoá hẳn là đã làm tiến hoá vẻ bề ngoài của “những quái thai có triển vọng” (hopeful monsters) – một quái vật mang gen di truyền thình lình không biết làm sao lại biết cách hoạt động – hơn là những sự phát triển theo từng bước trong chốc lát lại được sàng lọc bằng chọn lọc tự nhiên. Tuy nhiên, các nhà khoa học như Gould bây giờ khẳng định rằng cả hai người trên đều đi đúng đường, và câu chuyện về sự tiến hoá là một câu chuyện về những sự thay đổi nhanh chóng và đầy bi kịch kéo theo bởi những thời kỳ lâu dài bế tắc. Tuy nhiên, khi đóng vai tìm hiểu sự chọn lọc tự nhiên, Gould và Stanley cùng các nhà khoa học khác đã bị bỏ quên với vấn đề là cung cấp một cơ chế đáng khen ngợi nhằm giải thích cách làm sao vi khuẩn và tảo xanh đã xuất hiện trên hành tinh này cách đây hơn hai tỷ năm thay đổi tuỳ tiện thành hệ động vật và hệ thực vật rất phức tạp như ngày nay. Di truyền học hiện đại cho rằng ADN thiết lập một loài để duy trì cách vững chắc cái điều nó làm. Có những sự thay đổi bất thường xoay quanh tiêu chuẩn, chứ không có cái gì khác nữa. Những vấn đề nghiêm trọng khác bám sát với lý thuyết Darwin cổ điển. Trong những vấn đề đó là những sự kiện các nhà khoa học thấy “cuộc đấu tranh sinh tồn” rất ít trong thiên nhiên (nhiều loài có khuynh hướng hợp tác và chiếm hữu những hốc tường sinh thái không cạnh tranh); và rằng mọi cơ thể to lớn đều lập kế hoạch như chúng ta thấy ngày nay nơi các động vật và các loài côn trùng xuất hiện ngay ở kỷ Cambri, điều này không thích hợp với khuôn mẫu của Darwin; và rằng nhiều loài giống như “lungfish” không hề thay đổi tí nào trong hơn 300 triệu năm mặc dầu có những sự thay đổi quan trọng trong môi trường của chúng, một cách bằng phẳng đều đối nghịch với sự điều chỉnh thường xuyên mà Darwin đã quy gán cho quá trình chọn lọc tự nhiên.

Chính Darwin càng ngày càng bị những mối nghi ngờ quấy rầy sau khi cuốn sách “Origin” xuất bản lần đầu tiên. Trong các ấn bản tiếp theo, ông vẫn tiếp tục cho xuất bản sách khởi đi từ sự chọn lọc tự nhiên xét như là sự giải thích những hiện tượng tự nhiên. Loren Eiseley nói rằng “việc kiểm soát chặt chẽ ấn ảnh cuối cùng đối với cuốn sách “Origin” cho thấy rằng trong khi nỗ lực bắt gặp những sự phản đối đang bắt đầu chống lại lý thuyết của ông mà tập sách đã được dày công soạn thảo lại trở nên luống công… cơ cấu lý thuyết của Darwin đã trở nên yếu thế biết bao.”

Lý thuyết không được chứng minh của Darwin tuy nhiên đã trở thành giáo điều trong tâm trí công chúng. Hơn thế nữa, có một sự đối lập khoa học nghiêm túc ngay từ lúc đầu. Như nhà sinh vật học người Thụy Điển Soren Lovtrup chỉ rõ: hầu hết các thành phần ban đầu của Darwin, thậm chí khi chúng có những động cơ tôn giáo, “đều được tranh luận dựa trên cơ sở hoàn toàn khoa học”. Hầu hết đã phủ nhận sự tiến hoá, trừ cách giải thích của Darwin về tiến hoá ra. Trong những thập niên sau cái chết năm 1882 của Darwin, lý thuyết của ông ngày càng bị che lấp dưới đám mây. Lovtrup viết rằng “trong suốt một phần ba thế kỷ của chúng ta, các nhà sinh vật học không tin tưởng vào thuyết Darwin”. Hans Driesch ở Đức, Lucien Cuenot ở Pháp, Verno Kellog và T.H. Morgan ở Mỹ là những nhà sinh vật học và di truyền học lẫy lừng thế giới đều từ chối lý thuyết của Darwin trong suốt thời kỳ này.

Trường hợp Scopes vào năm 1925 (thường được gọi là “vụ thử Scopes” và thỉnh thoảng được ám chỉ như là “vụ thử ở khỉ”) là điều óc tưởng tượng bình dân Mỹ còn coi như việc đặt cho toàn bộ trường hợp chống lại Darwin, đã xảy ra để chống lại kinh nghiệm của sự bất đồng ý kiến chung. Những vấn đề khoa học chưa bao giờ được bàn bạc một cách thích hợp; một cái răng hoá thạch đã được cống hiến như những sự lưu tồn của cái gì đó được gọi là “Người Nebraska” (sau này nó bị đuổi ra để thuộc về con heo)

Vụ thử Scopes không chứng minh được gì về giá trị pháp lý mang tính khoa học về lý thuyết của Darwin, nhưng điều đó đã đi sâu vào tâm thức của người Mỹ khái niệm cho rằng trong cuộc tranh luận về sự tiến hoá duy nhất một sự lựa chọn có giá trị thì nằm giữa những người theo chủ nghĩa cơ yếu Kinh thánh (biblical fundamentalists) và Darwin. G.K. Chesterton đồng thời đã cho thấy rằng Giáo hội Công giáo không coi sách Sáng thế như là sách quy chiếu về các dữ kiện khoa học và không có vấn đề triết học nghiêm trọng với sự tiến hoá (được hiểu đúng), thì hoàn toàn vượt lên trên sự tranh cãi.

Vì sự thiếu sót rõ ràng trong lý thuyết nguyên thuỷ của Darwin, cái được gọi là “lý thuyết tổng hợp” đã nổi lên vào những năm 1930. Lý thuyết này kết hợp di truyền học, sinh học phân tử, và làm cho những khuôn mẫu toán học thêm rắc rối. Nhưng nó vẫn hoàn toàn mang tính Darwin trong việc đồng hoá của nó với những sự thay đổi tuỳ tiện được chọn lọc tự nhiên duy trì như là sức mạnh vận động của sự tiến hoá. Julian Huxley, người phát ngôn đứng đầu tổ chức này, khẳng định rằng khuynh hướng Darwin đã làm “Chim phượng hoàng chỗi dậy từ đống tro tàn”. Tuy nhiên, lý thuyết tổng hợp cũng có những vấn đề giống như khuynh hướng Darwin cổ điển, và trải qua hơn bốn mươi năm theo đó, những sự ủng hộ lý thuyết đó lần lượt từng cái rời bỏ. Năm 1979, Stephen Jay Gould đã thức tỉnh tình cảm của nhiều nhà khoa học: “lý thuyết tổng hợp hoàn toàn đã chết, mặc dù có tính dai dẳng của nó xét như sự chính thống thuộc về sách giáo khoa.”

Hoàn cảnh hiện thời


Điều đó đặt chúng ta ở đâu? “Sự quân bình được nhấn mạnh” đã là một lời đáp trả của giáo sư dạy sinh học trung dung hoặc nhà bình luận khoa học. Đây là giả thuyết nổi tiếng cho rằng Gould và Niles Eldredge đã xuất hiện trong những năm đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ hai mươi, khi họ và những nhà khảo cổ học khác bắt đầu khẳng định rằng các lỗ hỏng nơi dấu vết hoá thạch phải được tìm cho ra giá trị được biểu thị trên bề mặt hoá thạch. Theo lý thuyết này, những nhóm nhỏ động vật đột nhiên tách ra khỏi bầy đàn, di trú tới những nơi ở ngoại vi “ở bên rìa của sự chịu đựng sinh thái”, làm biến đổi nhanh chóng thành những “quái vật hy vọng” là thứ rồi đây sẽ thay thế cho bầy đàn cũ. Vì những sự thay đổi diễn ra quá nhanh chóng, nên không có một bằng chứng hoá thạch nào – và vì thế lý thuyết này cũng chẳng thể được chứng minh hoặc kiểm chứng.

Ngoài những người theo trường phái chuẩn mực (trung dung) ra, ngày nay còn có hai trường phái tiến hoá khác nữa: những người trung thành với lý thuyết cổ điển của Darwin, bởi vì họ nói rằng không có một giải thích nào tốt hơn về nguồn gốc các loài (một quan niệm mang tính siêu hình hơn là mang tính khoa học); và những người từ chối Darwin hoàn toàn, trong đó có một nhóm nổi tiếng những “cladists” ở Viện bảo tàng Lịch sử thiên nhiên của Mỹ. (“Cladists”, theo một cuốn từ điển, là “sự xắp xếp những cơ quan đặt nền tảng trên sự phân chia ngành của những dòng giống con cháu từ một tổ tiên chung”). Chủ nghĩa hoài nghi về lý thuyết của Darwin được phổ biến rộng rãi giữa các nhà khoa học hơn là được giả thiết một cách chung chung. Chẳng hạn, lý thuyết bị hầu hết các nhà sinh vật học người Pháp từ chối, trong đó có một gương mặt tiêu biểu là Pierre P. Grasse, chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học Pháp và là người chủ biên hai mươi tám tập “Traité de Zoologie”. Tuyển tập này gọi chủ nghĩa Darwin là “khoa học giả hiệu” (pseudo-science) là cái “cũng xung đột với thực tại hoặc không thể giải quyết những vấn đề cơ bản được”. Tuy nhiên, các nhà khoa học như Grasse tự xưng mình là “những nhà tiến hoá” (evolutionists) vì họ nhìn nhận rằng mọi loại hình sự sống đều chia sẻ đặc tính cơ bản như ADN và vì thế có thể bắt nguồn từ một tổ tiên; nhưng họ hoàn toàn không hề biết về cách thức làm sao điều này đã xảy ra.

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2022

TẠO DỰNG VÀ TIẾN HOÁ: TƯ TƯỞNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI

Thời sự Thần học - Số 2, Tháng 2/2009, tr. 7-17.

_Bùi Thiện_ 


Tạp chí Nouvelle revue de théologie số mùa hè năm 2008 đăng bài của Vincent Aucante về thuyết tiến hoá theo tư tưởng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Bài báo này cũng chính là bài thuyết trình của tác giả tại Hội thảo về đề tài “Tạo dựng và tiến hoá” diễn ra tại dinh thự mùa hè của Đức Thánh Cha ở Castel Gandolfo, từ mùng 1 đến mùng 3 tháng 9 năm 2006, với sự tham dự của nhiều nhà thần học, triết học và sinh học. Tác giả đã phân tích và phát triển tư tưởng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về những tương quan giữa khoa học và đức tin theo di sản của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II.

Thứ Tư, 17 tháng 8, 2022

THỜI SỰ THẦN HỌC - SỐ 2, THÁNG 6/2009

CHỦ ĐỀ: THẾ GIỚI TIẾN HOÁ HAY SÁNG TẠO 

_LỜI NGỎ_ 


Năm nay 2009 là kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Darwin và 150 năm ngày xuất bản quyển sách “On the Origine of Species” (Nguồn gốc các loài sinh vật), một công trình nghiên cứu sinh học nổi tiếng, trình bày cặn kẽ và đầy thuyết phục về thuyết Tiến hóa. Nhân dịp này, Hội đồng Tòa thánh về Văn hóa cùng với Đại học Giáo hoàng Gregorian tại Roma và Đại học Notre Dame tại Indiana, Hoa Kỳ đã đồng tổ chức Hội nghị quốc tế từ 3/3 đến 7/3/2009 tại Roma về Thuyết Tiến hóa.

Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2021

“NATURA” TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC VÀ THẦN HỌC

Thời sự Thần học – Số 88, tháng 5/2020, tr. 13-57.

_Phan Tấn Thành_

I. Khái niệm về từ ngữ

A. Tầm nguyên: Natura / naturalis (La-tinh) và Physis / physikos (Hy-lạp); nature / naturel (Pháp); nature / natural (Anh)
B. Cách sử dụng
  1/ Nghĩa thông thường: cái có sẵn (đối lại với nhân tạo)
  2/ Nghĩa triết học: bản chất (đối lại với những cái thay đổi)
  3/ Nghĩa lịch sử: khởi thủy (đối lại với văn hóa và lịch sử)
  3/ Nghĩa thần học: tạo dựng (đối lại với Đấng Tạo hóa)
  4/ Nghĩa tâm lý học: bản năng (đối lại với giáo dục)
  5/ Nghĩa khoa học tự nhiên: quy luật tự nhiên (đối lại với tự do)
  6/ Nghĩa khoa học xã hội: hiện tượng thiên nhiên (đối lại với giá trị quy ước)

II. Lịch sử triết học

A. Triết học Hy-lạp và Trung đại
1/ Trước Aristote. 2/ Aristote. 3/ Sau Aristote. 4/ Trung đại
B. Thời cận đại: 1/ Vũ trụ như bộ máy vật chất. 2/ Vũ trụ “duy tâm”
C. Khoa học tự nhiên

III. Natura trong thần học

A. Natura trong Kinh thánh
  1/ Dựa theo từ ngữ: physis
  2/ Dựa theo tư tưởng: cosmos, ktisis
B. Thần học tự nhiên và thần học về thiên nhiên
  1/ Thần học về thiên nhiên (theologia naturae): bàn về tạo dựng
  2/ Thần học tự nhiên (theologia naturalis): sử dụng lý trí để tìm biết Thiên Chúa
C. Natura trong thần học tín lý: bản tính
  1/ Mầu nhiệm Thiên Chúa. Natura-essentia, đối lại với persona
  2/ Mầu nhiệm Đức Kitô. Natura-substantia, đối lại với persona
  3/ Bản tính con người. Naturalis supernaturalis
  4/ Sự hợp tác của con người với Thiên Chúa: natura gratia
D. Natura trong thần học luân lý
  1/ Luân lý căn bản: Lex naturalis, phù hợp với bản tính lý trí
  2/ Học thuyết xã hội: Iura naturalia, những đòi hỏi của phẩm giá con người

Viết tắt : GLCG = Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo. Bản PDF ở cuối trang

Mỗi khi gặp các từ natura hay naturalis trong các sách triết học và thần học công giáo, chúng ta cảm thấy lúng túng không biết phải dịch thế nào cho đúng: bản tính, bản chất, tự nhiên, thiên nhiên? Thật ra, đàng sau vấn đề dịch thuật còn có một khó khăn lớn nữa: natura có nghĩa là gì? Bởi vì nó mang nhiều nghĩa, cho nên cần được hiểu đúng trong bối cảnh cụ thể của nó, rồi sau đó ta mới có thể tìm từ nào tương đương trong tiếng Việt để chuyển dịch.

Chúng tôi chia bài này làm ba phần.

1/ Trước tiên, trong phần thứ nhất, chúng ta sẽ khảo sát ý nghĩa từ ngữ natura theo tầm nguyên và những ý nghĩa kèm theo trong ngôn ngữ thường nhật.

2/ Kế đó, chúng ta bước vào lãnh vực triết học, để theo dõi những cách tiếp cận natura trong lịch sử triết học, cách riêng trong ngành philosophia naturalis.

3/ Cuối cùng, chúng ta sẽ tìm hiểu việc áp dụng hạn từ natura trong những lãnh vực khác nhau của thần học. Ngoài “theologia naturalis” như một hướng tiếp cận vấn đề hiện hữu của Thiên Chúa, danh từ natura còn được sử dụng:

a) trong thần học tín lý, như chìa khóa để suy tư về mầu nhiệm Thiên Chúa (Tam Vị, Kitô luận), và về con người trước mặt Thiên Chúa (nhân luận);

b) trong thần học luân lý: “luật tự nhiên” quy định tiêu chuẩn hành động, và “quyền tự nhiên” xác định tương quan của con người đối với xã hội.

I. Khái niệm về từ ngữ

Trước khi đi vào nội dung, thiết tưởng nên ghi nhận vài quan sát thú vị chung quanh việc dịch thuật từ các ngôn ngữ Âu châu sang Việt Nam.

Danh từ natura (gốc La-tinh, được chuyển thành nature trong tiếng Anh và tiếng Pháp) có thể được dịch sang tiếng Việt bằng nhiều từ: “tự nhiên, thiên nhiên” hay “bản tính, bản chất”. Thế nhưng các từ tương đương physis / physikos của tiếng Hy-lạp thì lại được dịch là: “vật lý”. Tại sao vậy? Có lẽ vào lúc đầu “vật lý” (Hán Việt) được hiểu là “lý lẽ của sự vật” (cách vật trí tri), nghĩa là thuộc lãnh vực triết học, chứ không phải là khoa học thực nghiệm. Dù sao, ngày nay, hai tính từ natural physical không còn đồng nghĩa với nhau nữa. Một nhận xét khác là trong tiếng Anh, tuy cùng một gốc physics nhưng lại có hai từ với ý nghĩa khác nhau: physician (y sĩ) và physicist (nhà vật lý học).

Sau đây, chúng ta sẽ lần lượt khảo sát nguyên ngữ của hai từ natura physis, và cách sử dụng trong ngôn ngữ thông thường.

A. Tầm nguyên

Nguồn gốc trực tiếp của natura là động từ nasci trong tiếng La-tinh, có nghĩa là sinh sản. Theo cấu trúc văn phạm, nó có nghĩa là “cái sẽ được sinh ra” (naturus), hoặc “cái gì sắp sinh” (nativitas), tức là chính sự sinh sản (generatio)[1]. Nó mang tính năng động.

Mặt khác, natura được dùng để dịch danh từ physis (φύσις) trong tiếng Hy-lạp (với tính từ là physikos), bắt nguồn bởi động từ phyein có nghĩa “mọc lên”. Nó muốn nói lên nguồn gốc, khởi điểm và sự tăng trưởng của một vật hoặc của một người; nó mang tính năng động, và đặc biệt là sức tăng trưởng nằm trong chính sự vật, chứ không do con người nghĩ ra.

Như vậy xét theo nguồn gốc, cả hai từ ngữ natura và physis trong tiếng La-tinh và Hy-lạp đều mang tính năng động, chứ không phải là cái gì tĩnh, bất biến. Thế nhưng, theo dòng thời gian, chúng đã thay đổi ý nghĩa rất nhiều, thậm chí có khi còn trái nghịch với nghĩa nguyên thủy nữa. Điều này giải thích phần nào tại sao nó được dịch ra tiếng Việt bằng nhiều từ khác nhau. Tiếp theo đây, chúng tôi muốn điểm qua những ý nghĩa chính của natura (danh từ) và naturalis (tính từ); tiếp đó chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu sự tiến triển lịch sử của chúng trong phần thứ hai của bài viết.

B. Sử dụng từ ngữ

Trong ngôn ngữ thông dụng, natura naturalis (được dịch sang Pháp nature / naturel; tiếng Anh nature / natural; còn tiếng Việt là “tự nhiên” vừa là danh từ vừa là tính từ), có thể mang ý nghĩa tích cực hay tiêu cực, tùy theo bối cảnh. Điều này được thấy rõ khi đối chiếu với những từ đồng nghĩa hay phản nghĩa . Giáo sư Francesco Viola đã cho thấy natura được dùng ít là trong bảy bối cảnh khác nhau[2]: cái gì sẵn có, bản chất sự vật, khởi thủy, thụ tạo, bản năng, tất yếu, dữ kiện, đối lại là: nhân tạo, tùy thể, lịch sử, tạo thành, văn hóa, tự do, quy ước.

1/ Natura: cái có sẵn, phú bẩm, trời ban, thiên phú.

Theo một nghĩa khá quen thuộc, natura / naturalis được hiểu như là cái gì không do bàn tay con người làm ra. Cái “tự nhiên” hiện hữu ngoài ý định của con người (chẳng hạn: nước tự nhiên, cây cối tự nhiên, hồ tự nhiên, v.v…)[3]. Những vật ấy đã hình thành trước khi con người xuất hiện trên mặt đất. Nói cho đúng, dưới một phương diện nào đó, con người cũng là một “sản phẩm tự nhiên”; tuy nhiên, thường chúng ta coi “tự nhiên” (hoặc thiên nhiên) như là cái gì ở bên ngoài con người, mà con người có thể nhìn ngắm, bảo tồn nó hoặc khai thác nó.

Hiểu theo nghĩa này, đối lại với “tự nhiên” là “nhân tạo”: cái “tự nhiên” do trời làm ra (hoặc bẩm sinh), cái nhân tạo là sản phẩm của con người (homo faber), hoặc là các sản phẩm nông nghiệp (agri cultura) hay là các sản phẩm tinh thần (animi cultura), nói gọn là “văn hóa” (cultura). Đây là nguồn gốc của sự đối chọi giữa “tự nhiên” với “văn hóa”. Theo chiều hướng này, “tự nhiên” cũng thường được hiểu như “vật chất” (hay chất liệu: materia) mà con người sử dụng để biến đổi nó, chẳng hạn: lấy trái cây để ăn, lấy gỗ cây làm nhà ở, lấy sắt làm dao cuốc, v.v... Nói cách khác, “tự nhiên” được đồng hóa với “vật chất”, và đối lại với “tinh thần”. Chúng ta sẽ trở lại với sự phân biệt này ở nghĩa thứ sáu dưới đây.

2/ Natura hiểu như bản chất sự vật (nghĩa triết học)

Như vừa nói, natura được hiểu như là cái gì hiện hữu trước khi con người can thiệp. Từ đó, nó được hiểu như là cái gì gắn với bản chất của sự vật, thuộc về cấu trúc nội tại của nó. Triết học gọi đó là “bản tính” (hay căn tính, bản sắc, bản chất)[4] định nghĩa một vật, phân biệt nó khỏi các vật khác. Theo nghĩa này, natura được nhìn dưới khía cạnh tĩnh và bất biến (bản thể), đối lại với những “phụ thể” có thể thêm bớt, thay đổi. Cũng theo lối nhìn này, cái gì không hợp với bản tính được coi là “ngang trái”, “phi pháp”.

Dù sao, nên lưu ý là tuy nói rằng bản tính nằm ở trong nội tại của con vật, nhưng việc nhận ra cái bản tính ấy là do lý trí của con người. Việc nhận định này tùy thuộc vào phán đoán của con người, và khó mà tránh cảnh “trăm người trăm ý”. Một thí dụ: để trả lời câu hỏi “con người là gì?”, chúng ta nhận được rất nhiều định nghĩa, tùy thuộc vào quan niệm của mỗi tác giả về con người (từ đó có nhiều thứ nhân-sinh-quan khác nhau)[5]. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề bản tính con người ở nghĩa số bảy; ở đây chỉ cần ghi nhận việc tìm hiểu bản tính của sự vật mang theo nhiều hệ lụy về thể lý hay luân lý, chẳng hạn như khi nói rằng con người hành động trái ngược với trật tự thiên nhiên.

3/ Natura hiểu như khởi thủy (nghĩa lịch sử)

Trên đây, chúng ta đã nói rằng cái “natura” xuất hiện trước khi có con người. Điều này có thể hiểu về trạng thái tĩnh (như đã giải thích ở số 1) hoặc về trạng thái động. Natura được hiểu về tình trạng ban đầu, nguyên thủy, mở đầu cho dòng lịch sử.

Lối hiểu này thường bao hàm một sự đánh giá về dòng lịch sử hoặc tích cực hay tiêu cực: lịch sử có thể quan niệm như một cuộc tiến hóa hoặc thoái hóa.

a) Nếu quan niệm lịch sử như cuộc tiến hóa, thì cái khởi thủy đồng nghĩa với thô sơ, hoang dại, cần được cải tiến, phát huy nhờ văn hóa. Trong ngôn ngữ của dân-tộc-học, các từ “native” “primitive” mang nghĩa tiêu cực: thổ dân, bán khai, nếu chưa nói là “man di mọi rợ”, nơi áp dụng luật rừng rú.

b) Nếu quan niệm lịch sử như cuộc thoái hóa, thì cái khởi thủy đồng nghĩa với mẫu mực mà chúng ta phải quay trở về để đối chiếu, chẳng hạn thời Nghiêu Thuấn theo lịch sử Trung Hoa, thời công chính nguyên thủy trong vườn Địa đàng theo Kinh thánh, hoặc thời cộng đồng Hội thánh tiên khởi trong lịch sử Giáo hội.

Ngày nay, phần lớn các tác giả thiên về quan niệm thứ nhất, đối chọi “tự nhiên” (nature) với “văn hóa” (culture), mặc dù cũng không thiếu những phong trào cổ động “trở về với thiên nhiên”, tìm về chốn hoang dã, tránh cảnh hỗn loạn ồn ào của văn minh đô thị, đó là chưa nói đến tình trạng môi trường ô nhiễm.

4/ Natura hiểu như thiên nhiên được tạo dựng (nghĩa thần học)

Triết học Hy-lạp nghiên cứu thiên nhiên như là một thực tại đã hiện hữu, còn Kitô giáo coi thiên nhiên như là công trình do Thiên Chúa tạo dựng. Nói cách khác, thiên nhiên được nhìn trong tương quan với Thiên Chúa. Tuy nhiên, lịch sử triết học đã chứng kiến ít là ba quan điểm khác nhau về mối tương quan này.

a) Một quan điểm cho rằng Thiên Chúa tạo dựng và tiếp tục quan tâm đến vũ trụ: việc tạo dựng gắn liền với việc quan phòng. Thiên Chúa tạo thành vũ trụ cũng là Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử nhân loại.

b) Một quan điểm cho rằng Thiên Chúa giống như một kiến trúc sư thiết kế vũ trụ, và rồi cứ để cho nó chạy tự động, chứ Người không màng chi đến sự vận hành lịch sử.

c) Một quan điểm khác không muốn nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thiên nhiên có những định luật tuần hành của nó mà không cần sự can thiệp từ bên ngoài.

Quan điểm thứ nhất là của thần học công giáo; quan điểm thứ hai là của vài triết gia cận đại (tựa như Descartes, Spinoza); quan điểm thứ ba là của khoa học tự nhiên hiện đại.

5/ Natura hiểu như bản năng (nghĩa tâm lý)

Nói được là những nghĩa trên đây được áp dụng cho vạn vật. Bước sang phạm vi dành riêng cho con người, chúng ta có thể hiểu “tự nhiên” như là bản năng, hoặc cảm xúc bộc phát. Lối hiểu này có thể kèm theo một phán đoán tích cực hoặc tiêu cực, tùy quan điểm của mỗi người.

a) Tích cực. “Tự nhiên” đồng nghĩa với chân thành, đơn sơ, chất phác; đối lại là giả tạo, khách sáo, gượng gạo.

b) Tiêu cực. “Tự nhiên” đồng nghĩa với bộc phát theo bản năng, thiếu tự chủ. Đối lại là con người điềm đạm, lễ độ, biết làm chủ cảm xúc.

Các quan điểm vừa rồi chi phối không ít đến mục tiêu của công tác giáo dục. “Nhân chi sơ tính bản thiện”, hay “nhân chi sơ tính bản ác”? Phải chăng xã hội đã khiến cho cuộc sống phức tạp rắc rối hơn? Không lạ gì mà lịch sử đã ghi nhận những người muốn sống “tự nhiên” theo nghĩa là tự do phóng khoáng, bởi vì họ không muốn chịu gò bó bởi khuôn khổ do tập tục luật lệ mà xã hội đặt ra. Một cách tương tự như vậy, có người luyến tiếc tuổi thơ trong trắng, khác với thói ranh mãnh quỷ quyệt do xã hội tạo ra.

6/ Natura như quy luật tự nhiên (nghĩa của khoa học tự nhiên)

Natura được hiểu như định luật tự nhiên của vũ trụ. Các hiện tượng thiên nhiên tuân theo một định luật tất định của tương quan nhân quả. Ý nghĩa này sẽ dễ nắm bắt hơn nếu chúng ta đối chiếu với các hiện tượng “nhân văn”, diễn ra với sự can thiệp của tự do con người. Mặc dù ta có thể dự đoán diễn biến các hiện tượng chính trị kinh tế, nhưng không ai dám bảo đảm rằng kết quả sẽ xảy ra đúng trăm phần trăm, bởi vì nó lệ thuộc vào những quyết định tự do của con người, thường rất khó lường! Nói khác đi, hiểu theo nghĩa này, “tự nhiên” được xem như đối nghịch với “tự do” và với “lịch sử” (phần nào tương tự như các nghĩa số 1 và số 3). Đây cũng là cơ sở cho sự phân biệt giữa hai ngành khoa học do ông Wilhelm Dilthey đề xướng: “khoa học tự nhiên” (sciences naturelles: Naturwissenschaften) và “khoa học nhân văn” (hoặc “tinh thần”: sciences de l’esprit: Geisteswissenschften).

7/ Sự kiện xảy ra, đối lại với giá trị (nghĩa của khoa học xã hội)

Natura được xem những toàn thể các hiện tượng thiên nhiên mà ta có thể điều khiển chúng. Các hiện tượng này tự nó chẳng có ý nghĩa hoặc giá trị luân lý. Chính con người đã gán cho chúng các giá trị; vì thế các giá trị này cũng có thể thay đổi tùy theo sự đánh giá của con người. Thoạt tiên, nhận xét này xem ra có vẻ mơ hồ, nhưng kỳ thực nó mang theo những hệ luận quan trọng trong đời sống xã hội. Cái gì được coi hợp với bản tính con người và cái gì trái ngược với bản tính? Xưa nay, hôn nhân vốn diễn tả tình yêu giữa đôi nam nữ; nhưng liệu ta có thể chấp nhận hôn nhân giữa hai người cùng giới tính không? Có thể thay đổi giới tính của một người không? Có một giới hạn nào được đặt ra cho các cuộc thí nghiệm trên sự sống con người không? Ai sẽ đặt ra giới hạn ấy: luân lý hay kỹ thuật? Nói tắt, có luật luân lý tự nhiên không?

Như vậy, natura là một danh từ đa nghĩa. Có một mẫu số nào trong các nghĩa ấy không? Trong phần tiếp theo, chúng tôi cố gắng theo dõi sự phát triển của các ý nghĩa ấy theo dòng lịch sử triết học Âu Tây.

II. Lịch sử triết học tự nhiên

Tại nhiều học viện hay chủng viện Công giáo, môn triết học về tự nhiên được đặt tên là “triết học tự nhiên” (philosophia naturalis), hay đôi khi cũng gọi là “vũ trụ học” (cosmologia). Thực ra, xét về lịch sử, vào lúc ban đầu, phạm vi của suy tư triết học về tự nhiên rất rộng lớn, bao gồm cả “khoa học tự nhiên” thời nay[6]. Tác phẩm của Isaac Newton về khoa học tự nhiên vẫn còn mang tựa đề bằng tiếng La-tinh là Philosophiae naturalis principia mathematica (Mathematical Principles of Natural Philosophy, 1687). Sự tách biệt hai ngành mới diễn ra vào thời cận đại, với sự phân biệt giữa “triết học” (mang tính siêu hình) và “khoa học” (mang tính thực nghiệm)[7]. Ở đây chúng tôi sẽ không đi vào nội dung của triết học tự nhiên, nhưng chỉ ôn lại những đường hướng khác nhau trong cách tiếp cận natura, được gom vào ba mục: 1/ Các triết gia cổ đại và trung đại. 2/ Các triết gia cận đại. 3/ Khoa học thực nghiệm.

A. Các triết gia cổ đại và trung đại

Những suy tư đầu tiên về natura bắt nguồn từ Hy-lạp, với những khảo luận về De Physica (Περί φυσεως) được mở đầu với ông Parmenides (cuối thế kỷ VI trước CN), với đối tượng là hiện tượng chuyển động và sản sinh của vạn vật. Đứng trước hiện tượng đó, các triết gia tìm hiểu arkhê nguyên ủy, nguồn gốc của chúng. Chúng ta hãy theo dõi sự tiến triển các quan niệm, với ông Aristote làm mốc phân chia, xét vì ảnh hưởng của tư tưởng của ông đối với hậu thế.

1/ Trước Aristote

Qua tác phẩm Physica của Aristote, chúng ta được biết các triết gia Hy-lạp có những quan điểm khác nhau về natura, do những lối tiếp cận khác nhau[8].

a) Trước hết, có một khuynh hướng coi toàn thể vũ trụ như một toàn bộ, tương tự như một sinh vật, vì thế người ta đi tìm một nguyên ủy chung cho vạn vật. Nhiều ý kiến đã được đề ra: nước (Thales), không khí (Anaxímenes), lửa (Heraclitus), đất (Xenófanes), lửa và đất (Parménides); hoặc là tất cả bốn yếu tố (Empédocles). Thuyết vật hoạt (hylozoism: vật chất có sự sống) có thể coi như tượng trưng cho khuynh hướng này. Đối lại là khuynh hướng coi vũ trụ như là một bộ máy tự động, gồm những thành phần tương tác theo các quy luật chặt chẽ. Tượng trưng cho khuynh hướng này là thuyết các nguyên tử (atomism) của Democritus, và tiếp nối nơi các triết gia Epicurus, và sau này Lucretius.

b) Kế đến, khi đi tìm nguồn gốc chuyển động, cũng lại nảy ra ít là hai khuynh hướng khác nhau: một đàng đi tìm nguồn gốc của tất cả mọi chuyển động; một đàng muốn biết đàng sau chuyển động có cái gì bất biến không. Nói cách khác, một bên nhìn ra cái toàn thể, một bên chú ý vào cấu trúc nội tại. Xét như toàn thể, natura là “vũ trụ, thiên nhiên”; xét theo cấu trúc, natura là “bản chất” của một vật.

c) Một yếu tố nữa góp phần hữu ích cho việc phân biệt giữa cái bất biến và cái chuyển động là sự quan sát xã hội loài người. Có những vật vốn hiện hữu mà không có sự can thiệp của loài người, và có những vật đã được biến đổi do sự can thiệp của loài người. Đây là nền tảng cho sự phân biệt giữa “tự nhiên” (natura) và “nhân tạo” (artefactum), hay là giữa physis techne. Cách riêng, sự phân biệt này được nêu bật khi áp dụng vào xã hội loài người, qua sự đối chiếu giữa physis (tự nhiên) với nomos (luật lệ). Cái tự nhiên là cái bất biến, còn luật lệ thì có sự can thiệp của con người. Đường hướng này bắt đầu từ các triết gia sophistas[9] và trở nên rõ rệt hơn nơi ông Socrates. Ông quan niệm physis như là yếu tố bất biến trong trật tự luân lý, cái thực tại tất yếu và nguyên thủy, chung cho tất cả mọi dân tộc; đối lại, nomos – các luật lệ, tập tục thì thay đổi nơi các dân tộc, và vì thế mang tính tương đối.

d) Ông Platon cũng góp phần đáng kể vào cuộc tranh luận này. Ông chống lại khuynh hướng nguyên tử của Democritus. Ông Democritus chỉ nhìn thấy vật chất vận hành theo quy luật máy móc; ông Platon không những phân biệt thế giới khả giác và thế giới ý tưởng, mà còn khẳng định rằng thế giới ý tưởng mới thật là nguyên lý của vạn vật, còn thế giới khả giác chỉ là phản ánh của thế giới ý tưởng. Dù sao, đối với Platon, thế giới không chỉ là một khối vật chất, mà còn có linh hồn và trí tuệ.

2/ Ông Aristote

Trái với ông Platon là thầy của mình, ông Aristote khẳng định vật chất là thực hữu, chứ không phải là phản ánh của thế giới ý tưởng. Ý tưởng phổ quát nằm trong đầu óc của ta, kết quả của hành vi trừu xuất của lý trí khi quan sát và phân tích sự vật, chứ không có hiện hữu tự lập.

Dựa trên quan điểm của những người đi trước, ông Aristote đưa ra nhiều thứ phân biệt khi bàn về natura.

a) Ta có thể nghiên cứu natura từ hai lối tiếp cận: một là xét toàn thể vạn vật, hai là bàn đến mỗi vật hiện hữu. Xét theo lối tiếp cận thứ nhất, natura có thể gọi là vũ trụ (cosmos), hay thiên nhiên. Xét theo lối tiếp cận thứ hai, natura gọi là bản chất (essentia) của sự vật.

b) Ta có thể khởi đầu bằng lối tiếp cận thứ hai:

- Mỗi vật hàm chứa trong mình nguyên nhân của sự chuyển động. Mọi chuyển động hàm ngụ một yếu tố không thay đổi và một yếu tố thay đổi. Yếu tố không thay đổi, làm nên bản chất của sự vật mà ta gọi là “bản thể” (substantia), đối lại với các yếu tố thay đổi mà ta gọi là “phụ thể” (accidens). Trong bản thể, cần phân biệt yếu tố “hình thức” (hay mô thể: forma) định hình và yếu tố “chất thể” (materia) đón nhận cái hình thức. Cái chất thể thì chung, còn cái mô hình thì đặc thù.

- Sự chuyển động có thể phát xuất từ nội tại hay từ phía bên ngoài. Nguồn gốc của chuyển động nội tại là chính bản chất của nó. Sự chuyển động cũng có thể bắt nguồn từ bên ngoài; ta gọi là “nguyên nhân tác thành” (efficient cause). Ngoài ra, vật cũng có thể chuyển động hướng đến một mục đích nào đó; ta gọi đó là “nguyên nhân cứu cánh” (final cause).

Đó chỉ là một khái niệm đơn giản về học thuyết của Aristote, để nêu bật sự liên hệ giữa các ý tưởng natura (physica) với các ý tưởng essentia, substantia cũng như causa.

c) Những phân tích cơ cấu nội tại của mỗi vật phần nào cũng có thể áp dụng cho natura hiểu theo nghĩa là toàn thể vạn vật, cách riêng liên quan đến việc tìm hiểu nguyên nhân đệ nhất của tất cả mọi chuyển động, cũng như cứu cánh tối hậu của mọi chuyển động.

3/ Sau Aristote

Ông Aristote để lại ảnh hưởng lâu dài trong suy tư về natura. Điều đáng nói thêm là những thế hệ sau ông ít nghiên cứu về natura của vạn vật cho bằng natura của con người, cách riêng trong lãnh vực luân lý. Từ đó nảy ra vấn đề làm sao sống phù hợp với natura, nghĩa là phù hợp với luật phổ quát điều khiển vũ trụ.

4/ Thời trung đại

Khi các đại học được thành lập tại Âu châu vào thế kỷ XII, triết học tự nhiên được đưa vào học trình, bao gồm một phạm vi rất rộng rãi.

Triết học Hy-lạp đã được tiếp nhận vào thế giới Công giáo với vài bổ túc không nhỏ. Sự điều chỉnh thứ nhất là natura, xét như là thiên nhiên, không phải tự hữu nhưng được tạo dựng bởi Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ theo một trật tự và cứu cánh. Chúng ta cũng không nên quên là triết học Hy-lạp mang hai bộ mặt chính là học thuyết Aristote và học thuyết tân Platon.

a) Học thuyết Aristote được đưa vào Âu châu qua sự giải thích của Maimonides và Averroes. Thánh Albertô và Tôma Aquinô đã tìm cách giải quyết những xung khắc giữa triết học và đức tin Công giáo. Hai vị này đã phân biệt lãnh vực đức tin và lý trí, cách riêng khi bàn về sự tạo dựng. Theo đức tin, vũ trụ được tạo dựng trong thời gian; tuy nhiên, theo lý trí, sự tạo dựng không trái nghịch với sự hiện hữu vĩnh hằng của vũ trụ: sự tạo dựng chỉ nói lên sự lệ thuộc về nguyên nhân tác thành chứ không nhất thiết bao hàm thứ tự thời gian[10].

c) Học thuyết tân Platon được truyền lại nhờ Plotinus. Họ quan niệm vạn vật như một toàn bộ thống nhất, với một nguyên ủy ví được như linh hồn vũ trụ (anima mundi). Tất cả phát xuất từ cái Nhất và quay về với Nhất. Tuy nhiên, quan niệm này cũng dễ rơi vào chủ nghĩa phiếm thần (pantheismus) khi gán cho vũ trụ những đặc tính linh thiêng, và được sử dụng vào việc ma thuật (magie), hoặc thuật luyện đan (alchimie).

B. Các triết gia cận đại

Quan niệm về vũ trụ đã thay đổi với sự khám phá của Nicola Copernico (1473-1543), lấy tâm điểm là mặt trời thay vì trái đất. Tuy nhiên, xét về lối tiếp cận, chúng ta gặp lại hai khuynh hướng đã chớm nở từ các triết gia Hy-lạp: một bên quan niệm nó là một tổng thể có sức sống (nếu chưa nói là linh hồn), một bên chỉ nhìn nó như một khối vật chất chuyển động theo những quy định có tính máy móc. Khuynh hướng thứ hai thắng thế nhờ sự yểm trợ của khoa học thực nghiệm, tuy vậy, thỉnh thoảng người ta cũng chứng kiến sự vùng dậy của khuynh hướng thứ nhất. Chúng ta hãy điểm qua vài khuôn mặt tiêu biểu.

1/ Khuynh hướng quan niệm vũ trụ như bộ máy

Ông Descartes được xem như người vạch khúc ngoặt của triết học vào thời cận đại. Khởi điểm của ông là chính chủ thể của con người suy tư. Thứ tự đã bị đảo ngược: trước đây, con người chấp nhận sự hiện hữu của vạn vật, và suy tư dựa theo đó; bây giờ, con người khởi đi từ nhận thức của chủ thể, và sự hiện hữu của ngoại vật tùy thuộc vào quan niệm của con người. Không phải là con người phải thích nghi với ngoại vật, nhưng ngoại vật lệ thuộc vào tư tưởng của con người. Con người tách ra khỏi tự nhiên, và khám phá những quy luật chi phối tự nhiên. Tất cả dựa trên phán đoán của con người. Từ đó có sự đối chọi giữa con người (res cogitans) với tự nhiên (res extensa), nghĩa là giữa tư tưởng và vật chất.

2/ Quan niệm “duy tâm” về vũ trụ

Trong khi Descartes muốn giải thích vạn vật theo những quy luật tất định của vật chất, thì đối lại, Spinoza lại chấp nhận yếu tố tâm linh trong tự nhiên, thậm chí ông còn đồng hóa tự nhiên với Thiên Chúa (Deus sive natura).

Khuynh hướng “duy tâm” của vũ trụ cũng tái xuất hiện nơi các triết gia bên Đức hồi thế kỷ XVIII, tựa như Schelling, Hegel, Schopenhauer.

C. Khoa học thực nghiệm

Vào thời Trung cổ, tại các đại học, “triết học tự nhiên” bao gồm cả khía cạnh siêu hình lẫn khía cạnh thực nghiệm. Vào thời cận đại, “triết học tự nhiên” và “khoa học tự nhiên” là hai ngành tách biệt. Ở đây chúng tôi chỉ giới hạn vào một vài nhận xét tổng quát.

Khoa học cắt đứt khỏi siêu hình (physica khác với metaphysica). Khoa học dùng phương pháp thực nghiệm, chứ không bận tâm với những gì “siêu hình”. Điều này đưa đến nhiều hệ quả quan trọng:

- Khoa học không bận tâm đến việc truy tầm những “nguyên nhân bên ngoài thế giới”, (chẳng hạn như Đấng Tạo hóa) và cũng không đặt vấn đề “nguyên nhân cứu cánh” của vũ trụ.

- “Natura” được xem như một khối vật chất ở bên ngoài con người, được gọi là “tự nhiên” hay “thiên nhiên”, hay “vũ trụ”. Như vậy, con người không còn là thành phần của natura nữa. Đó là nền tảng cho sự phân chia giữa “khoa học tự nhiên” và “khoa học nhân văn”. Nên ghi nhận một sự thay đổi nữa về từ ngữ: xưa kia, “natura” và “physica” đồng nghĩa với nhau, nhưng dần dần, trong ngành “khoa học tự nhiên” (natural sciences) nảy ra nhiều chuyên ngành khảo cứu, trong đó physica là một đối tượng chuyên biệt (gọi là vật lý), khác với các ngành sinh vật học, địa chất học, hóa học, v.v.. Tuy nhiên tất cả có cùng một quan niệm chung về phương pháp nghiên cứu là phương pháp thực nghiệm, cũng như một đối tượng chung là vũ trụ vật chất.

- Các tiền đề vừa rồi ảnh hưởng đến quan niệm về “định luật tự nhiên”. Những định luật này không do Đấng Tạo hóa quy định, cũng không nằm trong bản tính của các vật, nhưng là những kết luận của các quan sát thực nghiệm sau nhiều lần thí nghiệm và kiểm chứng theo phương pháp quy nạp[11]. Như vậy, các định luật này do lý trí phát biểu, dựa theo sự quan sát liên hệ nhân quả giữa hai hiện tượng (nguyên nhân tác thành).

Do đó, chúng ta phải thận trọng khi gặp thuật ngữ “luật tự nhiên” (natural law, laws of nature), bởi vì nó có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy theo các tác giả và đặc biệt tùy theo góc độ tiếp cận.

III. Sử dụng từ “natura” trong thần học

Sự phân biệt giữa triết học và thần học thường dựa trên tiêu chuẩn “nguồn mạch” hay cơ sở lý luận: triết học dựa trên lý trí, còn thần học dựa trên các dữ kiện của mặc khải. Một nguồn chính của mặc khải là Kinh thánh. Một câu hỏi đầu tiên được đặt ra là: Kinh thánh nói gì về natura? Tiếp đến, chúng tôi sẽ trình bày những ý nghĩa của “theologia naturalis”, và cũng như những ý nghĩa của natura trong thần học tín lý và luân lý.

A. Natura trong Kinh thánh

Việc khảo sát ý nghĩa natura trong Kinh thánh vấp phải hai trở ngại chính: một là từ ngữ và hai là quan niệm.

Trước hết, lý do từ ngữ: natura là danh từ tiếng La-tinh, đang khi Kinh thánh thì được viết bằng tiếng Híp-ri và tiếng Hy-lạp. Như vậy ta cần phải khảo sát những từ tương đương trong hai ngôn ngữ ấy, chứ không thể nào khởi đi bằng tiếng La-tinh. Từ ngữ tương đương trong tiếng Hy-lạp (ngôn ngữ của Tân ước và của bản dịch LXX) là physis, nhưng từ này có thể tương đương với nhiều từ khác nhau trong tiếng Híp-ri.

Điều khó khăn thứ hai còn lớn hơn nữa, đó là sự khác biệt về “ý thức hệ”. Não trạng của người Do-thái mang tính cụ thể, khác với đầu óc người Hy-lạp thích những khái niệm trừu tượng[12]. Đàng khác, Kinh thánh nhìn vũ trụ như thụ tạo trong tương quan với Thiên Chúa, chứ không như một thực thể độc lập, lại càng không thể nào như là thần linh.

Dù sao, chúng ta có thể dùng hai lối tiếp cận khác nhau để nghiên cứu natura trong Kinh thánh: một đàng là dựa theo từ ngữ, một đàng là dựa theo tư tưởng.

1/ Dựa theo từ ngữ: physis, physicos

Trong Cựu ước, physis chỉ xuất hiện trong bản LXX, ở sách Khôn ngoan (3 lần) và trong sách Macabê quyển Ba và Bốn.

Trong Tân ước, physis được gặp thấy 14 lần, nhiều nhất trong các thư của thánh Phaolô, đặc biệt là trong thư gửi Rôma (7 lần) và họa huần trong 1Cr, Gl, Ep; từ physis cũng gặp thấy trong Gc và 2Pr. Tiếc rằng đây là một từ đa nghĩa.

Ý nghĩa đơn giản hơn cả là “đặc tính gắn liền” với một người hay một vật (Rm 1,26; 2,14; 11,24; 1Cr 11,14; Gl 4,8), hoặc “gắn liền với sự sinh ra” (Ep 2,3; Rm 2,27; Gl 2,15).

Đi vào chi tiết, từ physis xuất hiện trong nhiều bối cảnh khác nhau:

- Con người và súc vật: “Mọi loài (physis) thú vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người (physei tei anthropinê) đều có thể chế ngự được và đã chế ngự được” (Gc 3,7). Trên thế giới này có nhiều loài, trong đó có loài người nữa, được Thiên Chúa dựng nên.

- Bản tính Thiên Chúa. Thuật ngữ này được gặp nơi 2Pr 1,4: các tín hữu được thông dự vào “bản tính Thiên Chúa” nhờ cuộc tái sinh, được khai mào bởi cuộc phục sinh của Đức Kitô. Nếu nói theo triết học, thì ở đây “bản tính Thiên Chúa” được dùng theo nghĩa loại suy, xét vì Thiên Chúa không được “sinh ra”, như từ ngữ physis hàm ý.

- Nòi giống. Thật vậy, ý tưởng “sinh ra” được hiểu trong thư gửi Rôma, khi tác giả nói đến dòng giống dân Do-thái như là cây ô-liu tự nhiên (được hưởng nhờ ơn cứu độ), còn dân ngoại thì được tháp vào (Rm 11,21-24).

- Lương tâm. Trong khi dân Do-thái được Thiên Chúa ban Lề luật để hướng dẫn cách thức hành động, các dân khác cũng có luật luân lý để hướng dẫn hành động theo bản tính của mình: “Dân ngoại là những người không có luật Môsê; nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì Luật dạy, thì là Luật cho chính mình, mặc dầu họ không có Luật Môsê. Họ cho thấy là điều gì Luật đòi hỏi, thì đã được ghi khắc trong trái tim của họ. Lương tâm họ cũng chứng thực điều đó, vì họ tự phán đoán trong lòng, khi thì cho mình là trái, khi thì cho mình là phải” (Rm 2,14-15).

- Bản tính. Lương tâm dạy cho con người cách thức hành động phù hợp với bản tính của mình. Trên thực tế, thánh Tông đồ cho thấy có những người hành động đi ngược với “trật tự tự nhiên” trong phạm vi tính dục (Rm 1,26-27), khiến cho họ cư xử như thú vật (2Pr 2,12). Tuy nhiên, trong thư thứ nhất gửi Corintô, thánh Phaolô nói đến chuyện để tóc ngắn hay tóc dài theo lẽ tự nhiên (1Cr 11,14-15), nhưng ở đây “tự nhiên” có lẽ hiểu về phong tục chứ không phải là theo bản tính (câu 16).

Tóm lại, không những hạn từ physis ít được dùng trong Kinh thánh, mà còn mang nhiều ý nghĩa khác nhau, khiến ta khó đưa ra một khái niệm chung.

2/ Dựa theo tư tưởng

Nếu natura trong tiếng La-tinh được hiểu như là thiên nhiên hoặc vũ trụ, thì ta có thể quy chiếu về ý tưởng tương đương cosmos hoặc ktisis (tạo dựng). Về điểm này, ta có nhiều dữ kiện phong phú về “thần học tạo dựng” ngay từ những chương đầu của Kinh thánh. Dù sao, Kinh thánh không dừng lại ở việc mô tả tiến trình tạo dựng nhưng còn móc nối với lịch sử cứu độ. Điều này trở thành nổi bật hơn trong Tân ước, khi thánh Phaolô đặt Đức Kitô như là trung tâm và chóp đỉnh của cuộc tạo dựng: Người đã thực hiện cuộc tái tạo dựng (Gl 6,15), và đưa tất cả mọi sự đến thời viên mãn (Ep 1,3-14; Cl 1,15-21). Công trình cứu độ không chỉ giới hạn vào loài người mà còn mở rộng đến toàn thể loài thụ tạo (Rm 8,18-24).

B. Thần học tự nhiên và thần học về thiên nhiên

Trước hết, cần lưu ý về từ ngữ. Trong tiếng Hán-Việt, “thần học” được hiểu là môn học về các thần linh hay là về Thiên Chúa; nhưng theo nguyên ngữ Hy-lạp, theologia (gồm bởi theos + logos) có nghĩa là lời nói hoặc suy tư về Thiên Chúa. Trường phái Stoa bên Hy-lạp nói đến ba cách thức liên quan đến việc “nói” về các thần: a) theologia mythica, thần thoại, kể chuyện về nguồn gốc các thần; b) theologia politica: nói với các thần linh qua các buổi tế tự công; c) theologia physica: suy tư về các thần linh nhờ lý trí.

Tương đương với theologia physica (tiếng Hy-lạp) là theologia naturalis trong tiếng La-tinh. Thế nhưng thuật ngữ này có thể hiểu hai nghĩa, tùy theo lối giải thích natura như là thiên nhiên hay như là bản tính con người. Theo cái nhìn Kitô giáo, theologia naturalis vừa là: 1/ thần học về thiên nhiên, vừa là 2/ thần học dựa theo lý trí. 

1/ Thần học về thiên nhiên

Nếu hiểu natura như thiên nhiên, thì theologia có nghĩa là thần học về sự tạo dựng. Như đã nói trên đây, triết học Hy-lạp quan niệm “thiên nhiên” như toàn bộ các sự vật hiện hữu, và đôi khi còn coi thiên nhiên như thần linh. Trái lại, theo Kinh thánh, thiên nhiên được nhìn như là kết quả của công trình tạo dựng của Thiên Chúa.

Kinh thánh đã mở đầu bằng những trình thuật về tạo dựng. Nhưng có lẽ tác giả không nhằm trình bày một khảo luận triết học về nguồn gốc vũ trụ cho bằng mời gọi vạn vật hãy chúc tụng Đấng Tạo thành: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2); “Ca tụng Chúa đi, tự cõi trời thăm thẳm, ca tụng Người trên chốn cao xanh” (x. Tv 148). Kinh thánh đầy những thánh vịnh, thánh ca chúc tụng Thiên Chúa tạo thành.

Tiếc rằng trong lịch sử, khuynh hướng này không phát triển nhiều, có lẽ do ảnh hưởng của triết học Platon, coi thế giới vật chất như là chướng ngại thay vì hướng chúng ta lên cùng Thiên Chúa. Vì thế mà con người phải “xuất thế” (xa lánh thế gian), tìm cách gặp gỡ Thiên Chúa qua việc “chiêm ngắm các chân lý đức tin” bằng tinh thần, chứ không phải nhờ giác quan. Đó là chưa nói đến những luồng tư tưởng nhị nguyên (chẳng hạn thuyết Manikê), coi vật chất như là sản phẩm của Thần Dữ, đối lại với tinh thần là sản phẩm của Thần Lành.

Dù vậy, lịch sử Kitô giáo cũng không thiếu những người tìm gặp Chúa qua việc chiêm ngắm vẻ đẹp của vũ trụ vật chất. Vào thời các giáo phụ, đặc biệt bên Đông phương, chúng ta có các bài giảng của Grêgôriô Nyssa, Maximus Confessor. Vào thời Trung cổ, chúng ta có bài ca vạn vật của thánh nữ Hildegard Bingen hoặc của thánh Phanxicô Assisi, ca tụng “Anh Mặt trời, Chị mặt trăng, v.v…”, được dùng làm tựa đề cho thông điệp của ĐTC Phanxicô về môi sinh[13].

Ngày nay, có một chiều hướng mới phát sinh trong ngành thần học về tạo dựng đó là “thần học về môi trường” (ecotheology), phần nào nhằm đáp ứng lại phong trào sinh thái (ecology) đương đại. Tuy vậy, Giáo hội nhận thấy cần phân biệt nhiều khuynh hướng của phong trào này, trong đó có những chủ trương không thể chấp nhận được.

- Không thể chấp nhận chủ trương sùng bái thiên nhiên (culture worship), chẳng hạn phong trào New Age.

- Không thể chấp nhận việc tuyệt đối hóa thiên nhiên (cây cối, động vật) đến nỗi đặt nó lên trên cả phẩm giá con người.

Đối lại, Giáo hội đề ra chủ trương “môi sinh toàn diện” (integral ecology), bao gồm hết mọi khía cạnh nhân sinh: môi trường kinh tế và xã hội, môi sinh văn hóa, và đặc biệt là “môi sinh nhân bản” (human ecology). Xem bài viết trong số báo này về thông điệp Laudato si’ của Hồng y Peter K. A. Turkson.

2/ Thần học tự nhiên

Nếu hiểu natura như là bản tính con người thì theologia naturalis được hiểu như là khả năng mà con người có thể biết được Thiên Chúa nhờ việc sử dụng trí tuệ tự nhiên.

Điều này giả thiết rằng có hai con đường để nhận biết Thiên Chúa: con đường tự nhiên (nhờ lý trí) và con đường đức tin (chấp nhận những gì Thiên Chúa đã mặc khải).

Về khả năng của con người nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa, công đồng Vaticanô I (hiến chế Dei Filius) tuyên bố: “Con người nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí, có thể từ các thụ tạo nhận biết cách chắc chắn có Thiên Chúa như nguyên lý và cứu cánh mọi sự. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người”. Công đồng trưng dẫn hai đoạn Kinh thánh (Kn 13,1-9 và Rm 1,19-20) để củng cố lời tuyên bố của mình.

Trên thực tế, đã có một môn học mang tên là “thần học tự nhiên” (theologia naturalis) tìm cách chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng những luận cứ tự nhiên, nghĩa là dùng lý trí, vì thế cũng được đặt tên là “thần học lý trí” (theologia rationalis). Trên thực tế, con người còn dùng nhiều “con đường” khác nữa để nhận biết Thiên Chúa, chẳng hạn như nhờ lương tâm (dựa theo Rm 2,14-15), hoặc khát vọng sự vô biên và hạnh phúc (x. GLCG số 31-35).

Từ chỗ xác tín rằng Thiên Chúa mặc khải chính mình qua công trình tạo dựng và qua lịch sử cứu độ, Giáo hội kết luận rằng con người có thể nhận biết Thiên Chúa nhờ lý trí và đức tin, và ĐTC Gioan Phaolô II mở đầu thông điệp Fides et ratio bằng những lời như sau: “Đức tin và lý trí là đôi cánh nhờ đó tinh thần con người vươn lên đến việc chiêm ngắm chân lý”, và nhắc lại khẳng định của công đồng Vaticanô I : “Tuy lý trí và đức tin thuộc hai hệ trật khác biệt, nhưng không thể nào mâu thuẫn nhau, bởi vì đều bắt nguồn từ một nguyên nhân” (số 54, trích dẫn hiến chế Dei Filius. X. DZ 3017).

C. Natura trong thần học tín lý

Trong triết học, natura mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Thánh Tôma đã lặp lại nhận xét của Aristote trong Summa Theologiae[14]. Tuy nhiên, trong thần học tín lý, natura được hiểu đặc biệt như là “bản tính”, và trở thành một từ khóa để giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa Tam vị (một bản tính trong ba ngôi vị), mầu nhiệm về thân thế Đức Kitô: một ngôi vị trong hai bản tính. Natura cũng là một từ khóa để giải thích vị trí của con người trong tương quan với Thiên Chúa[15].

1/ Mầu nhiệm Thiên Chúa

Đối với Thiên Chúa, ta có thể áp dụng khái niệm natura một cách loại suy, bởi vì Thiên Chúa là Đấng Tự hữu chứ không được “sinh ra” (theo tầm nguyên của từ natura do động từ nasci). Bản tính của Thiên Chúa được gọi là “thiên tính” (divinitas, deitas) hoặc essentia divina.

Có hai lối tiếp cận để bàn về bản tính Thiên Chúa: một đàng xét như là Đấng Tạo Hóa, một đàng là trong mầu nhiệm Tam vị.

a) Đối chiếu với loài thụ tạo

Sử dụng phạm trù triết học, bản tính Thiên Chúa được định nghĩa qua sự đối chiếu với các thụ tạo: Người là Đấng Tự hữu (Esse per se), đang khi các thụ tạo tiếp nhận sự hiện hữu bởi Người (esse per alio).

Bản tính của Người là hiện hữu (Esse subsistens), dựa theo Xh 3,15. Nơi Người, bản tính (essentia) và hiện hữu (existentia) đồng hóa với nhau. Điều này được Sách GLCG nhắc lại ở số 213, nhưng cũng thêm rằng Đấng Hiện hữu cũng là Chân lý (số 215-217) và là Tình Yêu (số 218-221).

b) Mầu nhiệm Tam vị

Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Đấng duy nhất (unus Deus). Đấng duy nhất tỏ mình ra là Cha, Con, Thánh Linh, nhưng không phải là ba Thiên Chúa! Làm thế nào dung hòa được niềm tin vào Một Thiên Chúa với sự biểu lộ của Ba Vị?

Các giáo phụ đã dùng các phạm trù triết học để diễn giải mầu nhiệm, đó là sự phân biệt giữa essentia và persona: Thiên Chúa là Một xét về essentia, nhưng là Ba xét theo persona. (Xem GLCG số 251-252).

Như vậy, nơi Thiên Chúa, natura đồng nghĩa với essentia (tiếng Hy-lạp là ousia)[16], và đối lại với persona (tiếng Hy-lạp là hypostasis). Đây là công thức đức tin đã được tuyên bố ở công đồng Constantinopolis năm 381, nhờ sự đóng góp đặc biệt của ba giáo phụ Cappađôxia: Basiliô, Grêgôriô Nazianzô, Grêgôriô Nyssa.

2/ Mầu nhiệm Đức Kitô: natura đối lại với persona

Theo đức tin Kitô giáo, Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Người không phải là Thiên Chúa “đội lốt” con người (thuyết ảo thân: docetismus), cũng không phải là một con người đức hạnh được nhận làm Con Thiên Chúa (thuyết dưỡng tử: adoptionismus). Làm thế nào dung hòa hai dữ kiện đó?

Công đồng êphêsô (năm 431) và Calxêđônia (năm 451) sử dụng các phạm trù triết học “natura” và “persona” để giải thích mầu nhiệm bản thân Đức Kitô: Người có hai natura trong một persona. Công đồng Êphêsô chống lại Nestôriô cho rằng nơi Đức Kitô, persona con người kết hợp với persona của Con Thiên Chúa (x. GLCG số 466). Công đồng Calxêđônia chống lại thuyết một bản tính (monophysismus). Calxêđônia phát biểu đức tin như sau:

“Chúng tôi tuyên xưng một Chúa Con duy nhất và đồng nhất, Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, Người hoàn hảo trong thiên tính (in deitate), Người cũng hoàn hảo trong nhân tính (in humanitate), thật sự là Thiên Chúa và thật sự là người gồm một linh hồn có lý trí và một thân thể, đồng bản tính (consubstantialis) với Chúa Cha theo thiên tính (secundum divinitatem) mà cũng đồng bản tính với chúng ta theo nhân tính (secundum humanitatem), giống chúng ta về mọi phương diện ngoại trừ tội lỗi, trước muôn đời muôn thuở được sinh ra từ Chúa Cha theo thiên tính và trong những ngày cuối cùng, vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, cũng được sinh ra từ Trinh nữ Maria, Thánh mẫu của Thiên Chúa theo nhân tính, chính một mình Người là Kitô, là Con, là Đức Chúa, là Con Một, được công nhận trong hai bản tính (in duabus naturis), không lẫn lộn, không thay đổi, không phân chia và không phân biệt, bởi chưng sự khác biệt giữa các bản tính (differentia naturarum) không hề bị hủy bỏ vì kết hiệp, mà đúng hơn, đặc tính của mỗi bản tính (proprietate utriusque naturae) được bảo toàn, đồng quy thành một ngôi vị duy nhất và một bản thể duy nhất (in unam personam atque subsistentiam concurrente…” (x. GLCG số 467).

Nên ghi nhận là khi nói về “nhân tính”, công đồng dùng các từ natura humana hoặc humanitas, nhưng nói đến Đức Kitô “đồng bản tính” với Chúa Cha và với chúng ta, công đồng dùng từ con-substantialis.

3/ Bản tính con người: natura humana

Bản tính con người có thể xét theo cơ cấu nội tại hay trong tương quan với Thiên Chúa.

a) Nếu xét trong tương quan nội tại, vấn đề không có gì khác với triết học. Con người gồm bởi linh hồn và thân xác. Đi sâu hơn vào chi tiết, người ta có thể nói đến các quan năng khác, chẳng hạn như lý trí và ý muốn, trí tuệ và lương tâm; các cảm xúc và giác quan, v.v... Đến khi cần định nghĩa về con người, triết học Công giáo sử dụng phương pháp của Aristote xác định bản tính bằng giống (genus) và loại (species) đó là: “động vật có lý trí”. Chính lý trí tạo nên bản tính con người. Nhận xét này xem ra tầm thường, nhưng được thánh Tôma sử dụng khi phát biểu quan niệm “lex naturalis” mà chúng ta sẽ trở lại sau trong mục thần học luân lý. Dù sao, thiết tưởng cần ghi nhận rằng xét vì con người được định nghĩa qua một đặc tính chúng, cho nên tất cả mọi người đều bình đẳng với nhau về phẩm giá.

b) Xét trong tương quan với Thiên Chúa, vấn đề có thể nhìn dưới hai khía cạnh: tĩnh và động.

[i] Khía cạnh tĩnh: bản tính và ân sủng

Con người tuy là thụ tạo, nhưng đã được kêu gọi vào hiệp thông với Thiên Chúa. Con người được dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27.31).

Nói cách khác, ngoài ơn gọi “tự nhiên” (naturalis, nghĩa là phù hợp vởi bản tính: natura), con người còn nhận được ơn gọi “siêu nhiên” (supernaturalis), đó là thông hiệp vào bản tính Thiên Chúa, dựa theo 2Pr 1,4: “Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa (theias koinonos physeos: consortes divinae naturae)”.

[ii] Khía cạnh động: xét trong lịch sử cứu độ

Dựa theo Kinh thánh, chúng ta biết rằng vào lúc khởi nguyên, con người đã được tạo dựng trong tình trạng ơn nghĩa với Thiên Chúa, nhưng vì do tội lỗi, nguyên tổ đã làm mất tình trạng hạnh phúc (St 3,14-19). May thay, Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã cứu độ con người, cho phục hồi tình trạng công chính.

Thần học đặt tên cho các tình trạng ấy là natura originalis, lapsa, redempta (nguyên thủy, sa ngã, được cứu chuộc). Từ thời Trung cổ, thần học kinh viện đã đối chiếu tình trạng nguyên tuyền và tình trạng suy đồi, để nói đến những mất mát do tội lỗi.

(1) Tình trạng nguyên tuyền

Dựa trên Kinh thánh, thần học trình bày những ân huệ mà Chúa cho nguyên tổ dưới hai cấp độ: siêu nhiên và ngoại nhiên.

- Những ơn siêu nhiên (gratiae supernaturales) vượt khỏi những đòi hỏi của bản tính con người: tình nghĩa với Chúa, hạnh phúc được chiêm ngưỡng Chúa.

- Những ơn ngoại nhiên (gratiae praeternaturales) được ban để củng cố nếp sống tự nhiên: sự trường sinh bất tử, ổn định luân lý (không bị các đam mê thao túng), kiến thức phú bẩm.

Hai cấp độ ấy được Sách GLCG tóm lại ở các số 374-379. Trước hết, “Tình trạng công chính nguyên thủy” (iustitia originalis) hệ tại sự thánh thiện và được thông dự vào sự sống Thiên Chúa (theo công đồng Trentô và Vaticanô II). Những khía cạnh khác của con người được tăng cường nhờ sự lan tỏa của hồng ân vừa nói. Bao lâu con người sống trong tình nghĩa với Chúa, thì con người không phải chết (x. St 2,17; 3,19); không phải đau khổ (x. St 3,16). Sự công chính nguyên thủy cũng bao hàm sự hoà hợp nội tâm, sự hoà hợp giữa người nam với người nữ (x. St 2,25), sự hoà hợp giữa nguyên tổ với vạn vật. Con người làm chủ được mình, không bị khống chế bởi ba thứ dục vọng (x. 1Ga 2,16) khiến cho nó bị lệ thuộc vào khoái lạc giác quan, tham lam của cải, khăng khăng tự quyết không đếm xỉa đến lý trí.

(2) Những mất mát do sự sa ngã

Sau khi phạm tội, nguyên tổ đã mất đi những ân huệ vừa nói, quen được phân tích thành hai cấp độ: những ơn siêu nhiên và những ơn ngoại nhiên.

- Trên bình diện siêu nhiên, con người mất tình nghĩa với Chúa, mất sự sống vĩnh cửu, mất ơn phúc kiến. Sự mất tình nghĩa với Thiên Chúa diễn ra không chỉ vào lúc con người bị đuổi ra khỏi vườn, nhưng liền sau khi phạm tội: con người trốn tránh Thiên Chúa.

- Sự tước mất các đặc ân ngoại nhiên có thể nhìn thấy nơi bản án sau khi phạm tội: vì mất tình nghĩa với Thiên Chúa cho nên cũng mất hoà hợp với tha nhân và vũ trụ: giữa người nam với người nữ, giữa con người với thiên nhiên, đó là chưa nói đến sự rối loạn ngay trong nội tâm của mình, khi các đam mê thoát ra khỏi tầm kiểm soát của lý trí và ý chí (x. Rm 7,14-15).

Thực ra, đã có nhiều ý kiến khác nhau khi giải thích tình trạng mất mát này.

+ Trước đây, vài giáo phụ bên Đông phương cho rằng do tội nguyên tổ, con người vẫn còn duy trì “hình ảnh Thiên Chúa” (imago Dei: eikon), nhưng đã mất sự “giống như” (similitudo: homoiosis) Thiên Chúa. Để hiểu điều này, nên biết là thánh Irênê đã phân biệt hai ý tưởng “hình ảnh” và “giống như” (Adversus haereses V, 6,1; V, 8, 1; V, 16,2). Ý tưởng “hình ảnh” nói lên một sự thông dự về hữu thể, còn ý tưởng “giống như” hàm ngụ tính cách luân lý. Con người tội lỗi vẫn là “hình ảnh” Thiên Chúa, nhưng không còn “giống” Thiên Chúa nữa. Tiến trình cứu độ và thánh hóa nhằm giúp cho con người được trở thành “giống” Thiên Chúa hơn, hay nói theo thánh Irênê, nhằm giúp cho con người được “thần hóa” (divinisatio). Đó là mục tiêu của cuộc Nhập thể: “Thiên Chúa trở nên người để con người trở nên Thiên Chúa”. Dù sao, cần phải nói thêm rằng tuy hình ảnh Thiên Chúa đã được Đức Kitô tái tạo nơi những ai tin vào Người và lãnh bí tích rửa tội, nhưng hình ảnh này chỉ đạt tới mức hoàn hảo khi nào con người được chiêm ngưỡng nhan Chúa trên thiên quốc (x. Cl 3,3-4). Trong hiện tại, chúng ta vẫn còn mang vết tích của “con người cũ” cần được hủy diệt, để làm sáng tỏ “con người mới”.

+ Vào thế kỷ XVI, Thần học Cải Cách cho rằng bản tính con người đã bị hư hỏng hoàn toàn. Đây là một lý do mà bên Tin Lành, người ta không muốn nói đến “thần học tự nhiên” (con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa nhờ lý trí) hoặc “luật tự nhiên” (luật luân lý có thể khám phá dựa trên bản tính con người). Thần học Công giáo nói rằng bản tính con người (lý trí và ý chí) vẫn còn được bảo tồn tuy bị thương tổn. Thiết tưởng cả đôi bên đều nghĩ đến sự hư hỏng không phải về mặt tâm lý cho bằng về mặt tinh thần. Sự thương tổn hoặc hư hỏng cần được nhìn trong tương quan với chân lý và sự thiện. Dưới khía cạnh tâm lý, chúng ta có thể nói đến tình trạng “lành mạnh” hay “quân bình”, hoặc “tâm bệnh”; nhưng dưới khía cạnh tinh thần, ta có thể nói đến lý trí sáng suốt hay mù quáng, ý chí (hay con tim) ngay thẳng hoặc lành mạnh. Còn trong lãnh vực đang bàn, cần phải nói đến khả năng của lý trí để khám phá chân lý (Thiên Chúa) và ý chí tự do để chọn lựa điều thiện. Tiếc rằng kinh nghiệm cho thấy rằng những khả năng ấy chịu rất nhiều giới hạn.

Dù sao đi nữa, ta có thể nhận thấy một hậu quả của tội nguyên tổ ở nơi sự rối loạn các tương quan của con người đối với tha nhân (vợ chồng), xã hội và thiên nhiên: không còn bầu khí hoà hợp nữa; thay vào đó là xung đột đàn áp, khai thác bóc lột.

4/ Sự hợp tác của con người với ơn Chúa

Bên Tây phương, thần học về ân sủng được phát triển nơi thánh Augustinô nhân cuộc tranh luận với ông Pêlagiô. Câu chuyện này dài dòng và phức tạp.

- Ông Pêlagiô dùng từ “ân huệ” theo một nghĩa khá rộng. Theo ông, mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp (đối lại với chủ trương nhị nguyên của nhóm Manikê). Thiên Chúa đã ban “ân huệ” cho chúng ta qua Lề Luật và gương lành của Đức Giêsu, nhờ đó con người có thể thi hành ý Chúa. Ông Pêlagiô quan niệm rằng kể cả trí tuệ và ý chí cũng là “ân huệ” của Chúa. Trong viễn ảnh này, con người có khả năng để đạt được sự cứu độ, kể cả sau khi nguyên tổ phạm tội; ảnh hưởng của Đức Kitô xem ra chỉ được coi như là gương mẫu bên ngoài, chứ không hoàn toàn cần thiết.

- Thánh Augustinô bàn về ân sủng trong những bối cảnh khác nhau. Lúc đầu, ông đề cập đến ân huệ mà chúng ta lãnh nhận trong Hội thánh: nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được gia nhập Hội thánh, kết nạp vào thân thể Đức Kitô, và do đó trở nên cung điện của Thiên Chúa, nơi mà Thánh Linh ngự trị. Hiểu như vậy, ân huệ đồng hoá với ơn cứu chuộc của Đức Kitô. Trong cuộc tranh luận với ông Pêlagiô, tác giả thay đổi viễn tượng: ân huệ được hiểu theo nghĩa là sự giúp đỡ cần thiết mà Chúa ban để con người có thể thi hành điều tốt. Tầm ảnh hưởng của ân sủng cũng bị thu hẹp: những người ngoài Kitô giáo thiếu ân sủng, và vì thế không thể nào thi hành điều tốt và được cứu rỗi. Từ đó, ân huệ được nhìn từ phía con người hơn là từ phía Thiên Chúa: ân huệ là ơn Chúa ban để trợ lực (adiutorium) cho con người, giúp con người đạt được sự cứu độ.

Cuộc tranh luận giữa đan sĩ Pêlagiô và giám mục Augustinô đã lái vấn đề ân sủng (ơn thánh) sang mối tương quan giữa cái “tự nhiên” (nằm trong tầm khả năng của con người) và cái “siêu nhiên” (vượt quá sức con người): con người cần ân sủng để thực hiện những gì vượt quá sức mình. Nên biết là ở đây, khả năng của con người không được nhìn theo khía cạnh triết học nhưng là nhìn trong lịch sử cứu độ, nghĩa là trong tình trạng sa ngã của nguyên tổ.

Công đồng Carthago XVI (418) ủng hộ quan điểm của thánh Augustinô: ân sủng mang lại sự tha thứ tội lỗi, giúp cho con người tránh điều xấu. Chúng ta cần có ân sủng để tuân giữ các giới răn.

Như vậy, trong lãnh vực này, chúng ta thấy có nhiều sự đối chiếu: natura / gratia; và naturalis / supernaturalis. Sự phân biệt nhằm làm sáng tỏ các khái niệm, chứ trên thực tế, cả hai bên đều ăn khớp với nhau. Điều này được thánh Tôma Aquinô phát biểu qua công thức: “gratia non destruit naturam sed elevat et perfecit”[17]. Công thức “ân sủng không phá hủy tự nhiên” có thể được hiểu theo ba nghĩa:

a) Theo một nghĩa khách thể, áp dụng vào chương trình cứu độ nói chung. Thiên Chúa mạc khải trong lịch sử cứu độ cũng chính là Thiên Chúa tỏ mình qua công trình tạo dựng. Không thể nào có sự xung khắc giữa chân lý tự nhiên (khám phá khoa học) với chân lý đức tin (do mạc khải).

b) Theo một nghĩa hẹp hơn, áp dụng vào đời sống tâm linh. Thiên Chúa thánh hóa con người, nâng cao con người lên địa vị nghĩa tử của Chúa, nhưng điều này không có nghĩa là biến đổi bản tính con người. Bản tính con người được nâng lên nhưng không bị hủy diệt: trên thiên đàng, con người được hưởng vinh quang Chúa với đầy đủ tính năng của mình. Đức Maria vẫn là phụ nữ có hồn có xác, chứ không biến thành thiên thần. Chúng ta cũng có thể nói ngược lại như sau: ai càng “nên thánh” bao nhiêu thì càng “nên người” bấy nhiêu. Sự thánh thiện phát triển tất cả mọi tiềm năng của con người đến tột đỉnh. Vài vị thánh ví sự thánh thiện như lửa đốt thanh sắt: thanh sắt cháy đỏ rực lên, hầu như giống như lửa, nhưng vẫn giữ bản chất là thanh sắt.

c) Trong hoàn cảnh hiện tại, tác động của ơn Chúa phần nào bị giới hạn về phía con người. Ơn thánh không tiêu hủy hết tất cả mọi quan năng, tập quán của con người. Ơn thánh không tăng gia nam tính cho phụ nữ, không biến một nông phu thành bác sĩ. Ơn thánh giúp cho những tiềm năng được phát triển hơn: một Saulô trước đây hung hăng bảo vệ luật Môsê nay được hoán cải trở nên một chiến sĩ liều chết để truyền bá Tin mừng (chứ không thành một đạo sĩ ẩn tu).

Do đó, mỗi người chúng ta cần phải “biết mình”, biết những ưu khuyết điểm của mình: đâu là những yếu tố thuận lợi cho việc nên thánh, và đâu là những yếu tố ngăn cản tác động của Thánh Linh. Điều này được áp dụng không những trong lãnh vực luân lý, mà cả trong lãnh vực tâm sinh lý nữa. Một người lao tâm lao lực ắt sẽ gặp nhiều trở ngại trong việc hồi tâm để cầu nguyện. Vì vậy, họ nên tìm cách thư giãn để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lắng nghe tiếng Chúa.

Một cách tương tự như vậy, không hẳn một người thánh thiện đạo đức thì thông biết tất cả mọi chuyện cổ kim trong thiên hạ! Không, một ông thánh có thể vẫn ngu đần, mù chữ: sự thánh thiện không miễn cho ông khỏi học hành, tuy dù đôi khi Chúa có thể ban sự hiểu biết thiên phú, vượt quá tầm hiểu biết của các nhà thông thái. Việc tin tưởng vào tình thương của Chúa không có nghĩa là “há miệng chờ sung”. Không, chúng ta hãy làm hết sức của mình: đó là một cách để hợp tác với ơn Chúa. Ta có thể ví với công tác của bác nông phu. Bác phải lo cày bừa, cắt cỏ, gieo giống, bón phân: đó là phần của bác. Còn việc hạt giống lớn lên, sinh hoa trái đến mức nào thì tùy thuộc vào thời tiết, mưa gió, mặt trời.

D. Natura trong thần học luân lý

Trong thần học luân lý, ta gặp thấy từ natura được dùng trong hai ngành: luân lý căn bản và luân lý xã hội

1/ Luân lý căn bản: lex naturalis nền tảng cho luật luân lý

Một vấn đề căn bản được đặt ra trong luân lý: Dựa theo tiêu chuẩn nào để phê phán một hành vi là tốt hoặc xấu? Phải chăng luật lệ nhà nước, hay phong tục? Chúng ta biết rằng luật Nhà nước nhiều khi bất công, nhưng căn cứ vào đâu để tố cáo là bất công?

Đứng trước những câu hỏi đó, nhiều người đã đề ra học thuyết về lex naturalis mà có thể dịch là “luật tự nhiên” hay là “luật bản tính”, tùy theo quan niệm của mỗi người. Thật vậy, đã có nhiều quan niệm khác nhau về lex naturalis.

- Có người cho rằng đó là luật mà Đấng Tạo hóa đã ban cho con người.

- Có người đồng hóa nó với tiếng nói của lương tâm (hay lương tri).

- Có người hình dung rằng đó là bộ luật được rút ra từ bản tính siêu hình của con người, và vì thế cố định vĩnh viễn.

- Có người cho rằng đó là luật của con người khi còn sống trong tình trạng sơ khai.

Thánh Tôma Aquinô cho rằng lex naturalis biểu thị đường lối của Thiên Chúa đối với con người: “Sự tham gia của loài thụ tạo có lý trí vào luật vĩnh cửu” (Summa Theol. I-II, q.91, a.2). Điều đáng lưu ý là ngài không cho rằng đây là một mớ những mệnh lệnh cố định bất biến, nhưng là sự khám phá của lý trí về những điều thiện thích hợp với “bản tính” (natura) của mình. Bản tính của con người có thể phân tích từ ba khía cạnh: con người là một hữu thể, là một động vật, là loài có lý trí. Ta có thể khám phá những “khuynh hướng” dựa theo bản tính của mỗi cấp độ vừa kể, nghĩa là “khuynh hướng tự nhiên”:

a) Khuynh hướng chung cho tất cả mọi hữu thể là bảo tồn sự sống của mình;

b) Khuynh hướng chung với loài động vật là duy trì chủng loại;

c) Khuynh hướng riêng của loài người, sinh vật có lý trí, là nhận biết sự thật và sống trong xã hội.

Do ba khuynh hướng nền tảng ấy mà nảy ra những “mệnh lệnh sơ yếu” (prima praecepta), tuy còn tổng quát nhưng là nền tảng cho những suy tư kế tiếp để phát triển những “mệnh lệnh thứ yếu” (praecepta secundaria).

Từ khuynh hướng bảo tồn và phát triển sự hiện hữu nảy ra những khuynh hướng cụ thể hơn, nhằm mưu cầu sự toàn vẹn thân thể và những điều thiện bên ngoài để bảo vệ nó. Khuynh hướng duy trì chủng loại đưa đến việc kết hợp vợ chồng, chăm sóc và giáo dục con cái. Khuynh hướng thứ ba trở thành động lực thúc đẩy việc truy tầm chân lý tôn giáo hay ít là ý nghĩa cuộc sống, đối thoại, giao lưu xã hội. Cũng trong khung cảnh này mà nảy sinh cảm quan về công bình, được phát biểu qua hình thức sơ đẳng quen gọi là “luật vàng”, đó là: “Đừng làm cho người ta điều mà bạn không muốn họ làm cho mình”.

Trên lý thuyết, những mệnh lệnh sơ yếu ấy mang tính chất phổ quát và trường cửu. Tuy nhiên việc nhận thức các mệnh lệnh ấy có thể bị lu mờ do tội lỗi hoặc những hoàn cảnh văn hóa và lịch sử. Cũng vì điều kiện lịch sử mà chúng ta thấy sự do dự của lý trí khi phải đương đầu với vài vấn đề cụ thể, chẳng hạn như chế độ nô lệ, việc cho vay ăn lời, sự đấu kiếm và án tử hình.

Sự phân biệt giữa những mệnh lệnh “sơ yếu” và “thứ yếu” (Summa Theol. I-II, q.94, aa.4-6) giúp giải thích được sự tiến triển trong các luật luân lý: các mệnh lệnh sơ yếu và tổng quát thì chắc chắn; còn khi áp dụng vào những hoàn cảnh đa dạng của thực tế, thì lý trí cảm thấy nhiều lúng túng do dự. Để có thể đánh giá chính xác giá trị luân lý của một vấn đề cụ thể, không những ta cần phải bàn hỏi đối thoại với người khác, nhưng còn đòi ta thực hành các nhân đức, đặc biệt là đức khôn ngoan. Thực vậy, đức khôn ngoan hướng dẫn cách cư xử trong trường hợp cụ thể, cân nhắc các hoàn cảnh, và quyết định lựa chọn những phương tiện nào thích hợp nhất phù hợp với mệnh lệnh luân lý. Dĩ nhiên để việc suy xét lựa chọn được trung thực, lý trí không được để cho đam mê khống chế.

Vì đã có một bài trong số này về lex naturalis cho nên chúng tôi không muốn dài dòng ở đây[18]. Chỉ xin lưu ý rằng natura có thể hiểu hoặc như “bản tính con người” nghĩa là loài có lý trí (natura rationalis) hoặc như “bản chất sự vật” (natura rei). Hành vi trái nghịch với nó có thể “trái tự nhiên, phản tự nhiên” (contra naturam) hoặc “phi lý” (irrationalis).

2/ Giáo huấn xã hội của Giáo hội: những quyền lợi tự nhiên của con người

Kể từ thông điệp Sollicituo rei socialis của ĐTC Gioan Phaolô II (30/12/1987), Giáo huấn xã hội của Giáo hội được coi như một ngành của thần học luân lý (số 41). Một trong những đề tài nền tảng của Giáo huấn xã hội là phẩm giá con người, kèm theo hệ luật trực tiếp là các quyền lợi của con người[19].

Xét về tên gọi, các “quyền lợi của con người” (gọi tắt là nhân quyền), cũng còn được gọi là các quyền “bẩm sinh”, “cơ bản”, “tự nhiên”. Chúng tôi muốn dừng lại ở từ ngữ này.

Đôi khi “quyền lợi tự nhiên” (iura naturalia, natural rights) được hiểu về tình trạng của con người vào lúc sơ khai, trước khi gia nhập xã hội: chúng mang tính cách bất khả nhượng, nghĩa là con người vẫn giữ lại cho mình khi ký hợp đồng gia nhập cộng đồng (Thuyết Khế ước xã hội của Jean Jacques Rousseau). Giả thuyết này không thể nào kiểm chứng được! Một số tác giả cho rằng các quyền lợi được gọi là “tự nhiên”, bởi vì đã có từ bẩm sinh, chứ không do xã hội ban cấp.

Giáo hội Công giáo quan niệm rằng các quyền lợi được gọi là “tự nhiên” (natural) bởi vì nó gắn liền với bản tính con người (human nature). Đối với người có tín ngưỡng, có thể nại đến Thiên Chúa như là nền tảng cuối cùng, nhưng bởi vì muốn đối thoại với mọi người, Giáo hội dùng một ngôn ngữ khác, đó là “những quyền phát sinh từ phẩm giá của nhân vị” (GLCG số 1930), nó bắt nguồn từ bản tính con người, nó là những yêu sách để con người được sống xứng đáng với con người. (Trong tiếng La-tinh, dignitas -phẩm giá - bắt nguồn từ dignus: xứng đáng).

- Bản tính con người là một hữu thể có tự do (khác với động vật, gỗ đá); vì thế cái gì bóp chẹt tự do cũng đi ngược lại bản tính con người.

- Dĩ nhiên, trước khi nói đến tự do, ta phải nói đến quyền con người được sống. Vì thế nếu làm thương tổn sự sống thì cũng trái ngược với bản tính con người. Ngoài ra, để sống, con người cần phải ăn uống; tuy nhiên con người phải ăn uống để sống hợp với bản tính con người, chứ đừng ăn như loài lục súc, ăn ngấu nghiến, không có chừng mực.

- Ngoài sự sống cá nhân, con người cũng cần bảo tồn sự sống của chủng loại; từ đó con người cần đến hôn nhân, tuy rằng việc dựng vợ gả chồng không chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là sinh con đẻ cái, nhưng còn là yêu thương nâng đỡ nhau. Đây là điều khác biệt giữa loài người và loài động vật, mặc dù đôi bên đều có nhu cầu bảo vệ chủng loại.

- Điều này cũng đưa chúng ta đến một khía cạnh khác của bản tính con người, đó là chiều kích xã hội. Con vật sống theo bầy đàn, con người sống thành xã hội, trong đó con người được phát triển về thể xác, tâm tình và tín ngưỡng. Con người muốn hiểu biết chân lý, cách riêng là chân lý về nguồn gốc và cứu cánh cuộc sống, qua việc truy tầm và trao đổi với đồng loại.

Tóm lại, từ chỗ phân tích bản tính con người dưới những chiều kích khác nhau mà chúng ta khám phá ra công lý. Công lý là cái gì phù hợp với bản tính con người[20]. Hậu nhiên, giết người, trộm cắp, gian dối là điều trái ngược công lý, bởi vì trái ngược với bản tính con người. Vào thời đại hiện nay, các quốc gia cố gắng phát biểu công lý dưới hình thức “các quyền lợi căn bản của con người”. Luật pháp phát biểu các quyền lợi ấy theo một ngôn ngữ thích hợp với không gian và thời gian, ấn định việc thi hành các quyền lợi (và nghĩa vụ tương ứng) giữa các phần tử. Nhưng luật pháp không phải là nguồn gốc của các quyền lợi ấy, xét vì chúng đã có trước luật pháp.

Kết luận

Trong phần thứ nhất, chúng ta đã thấy rằng từ natura được dùng trong bảy bối cảnh khác nhau. Không lạ gì nó có thể được dịch sang tiếng Việt bằng nhiều từ khác nhau: tự nhiên, thiên nhiên, bản tính, bản chất.

Ý nghĩa của từ natura đôi khi trở nên sáng tỏ hơn nhờ những từ đồng nghĩa hay nghịch nghĩa.

- Đồng nghĩa. Chẳng hạn như các danh từ: mundus, creatio nếu hiểu natura là “thiên nhiên”; essentia nếu hiểu là “bản tính”, substantia nếu hiểu là “bản thể”. Tính từ naturalis có thể hiểu là innata (bẩm sinh).

- Nghịch nghĩa. Danh từ natura có khi được dùng để đối lại với ars (nghệ thuật), cultura (văn hóa), hoặc accidens (phụ thể), và thậm chí thần học còn đặt nó đối lại với persona, hay gratia. Đối lại với tính từ naturalis có thể là artificialis, humanus, positivus.

Đó là xét về từ ngữ. Còn nếu xét về nội dung, chúng ta có thể thấy natura có thể hiểu về vật chất bên ngoài con người; con người cần phải phát triển, khai thác natura. Tuy nhiên, có lúc con người cũng nhìn nhận mình là thành phần của natura cho nên phải tuân theo quy luật của natura. Có điều là người Hy-lạp xưa coi natura như một vị thần linh, Kitô giáo coi natura như là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, Đấng đã xếp đặt vạn vật trong một trật tự. Triết học và khoa học cận đại không muốn nhìn nhận một nguyên nhân nào khác bên ngoài con người: con người muốn khám phá thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên và theo đà ấy, muốn sửa đổi lại quy luật thiên nhiên. Đó chính là giấc mộng Prometheus đã được nói đến trong thần thoại Hy-lạp.

[1] Chẳng hạn như tác phẩm của thi sĩ Lucretius (k. 99 – k. 55 TCN), De rerum natura giải thích sự sinh sản của vạn vật.
[2] Francesco Viola, Il ritorno della natura nella morale e nel diritto, Lezioni di filosofia del diritto Anno accademico 1993-94, Universita di Palermo http://www1.unipa.it/viola/Natura_diritto_morale.pdf (truy cập 22-2-2020), p. 8-13.
[3] “Tự nhiên”: Khi không mà có; tự nó có như vậy. (Tự là từ đó mà ra). “Thiên nhiên”: do trời sinh đất đẻ mà thành như thế. X. Lê Gia, Tiếng nói nôm na (Tp. HCM: Văn Nghệ, 1999), tr. 658.
[4] “Bản”: gốc cây, thân cây; căn nguyên; lúc mới đầu; cái thuộc về mình. X. Lê Gia, Tiếng nói nôm na, tr. 24.
[5] X. Phan Tấn Thành, Nhân sinh quan Kitô giáo (Đời sống tâm linh, VIII), (Tp. HCM, Phương Đông, 2015), tr. 51-56: “Những định nghĩa triết học về con người”.
[6] G. Monastra, “Nature”, Interdisciplinary Encyclopedia of Religion and Science, (edited by G. Tanzella-Nitti, I. Colagé and A. Strumia), www.inters.org. S. O’Flynn Brennan, “Nature” (in Philosophy), in: New Catholic Encyclopedia, vol.X, p.208-211. Mariano Artigas, Filosofia de la Naturaleza, Eunsa, Pamplona, 2003, 5ed. Juan Cruz Cruz, El concepto de naturaleza, http://www.leynatural.es/2011/08/02/1-naturaleza/
[7] Tác phẩm A Free Enquiry into the Vulgarly Received Notion of Nature (1686) của Robert Boyle được coi như một dấu mốc đòi hỏi sự phân chia này. Trên thực tế, sự phân chia làm hai ngành tại các đại học châu Âu xảy ra muộn hơn, khoảng thế kỷ XIX.
[8] X. Aristote Physica, II, 192b (xem thêm Metaphysica, lib.V. 4, 1014 b 16 - 1015 a 12). Ngoài ra cũng nên biết rằng các triết gia đầu tiên tìm cách giải thích vũ trụ bằng những nguyên nhân vật lý, đối lại với các thi sĩ giải thích vũ trụ qua các “thần thoại” (mythologia).
[9] Sophista thường được dịch là “ngụy biện”, nhưng đó là hiểu theo nghĩa tiêu cực. Vào lúc đầu, sophista là những người dạy minh triết (sophia). Dần dần, nó được áp dụng cho những người tài giỏi, cách riêng trong việc lãnh đạo, có thể ví với các hiền nhân quân tử bên Đông phương. Tiếc rằng việc tham gia chính trị dễ gây ra ác cảm nơi quần chúng. Người ta cho rằng những người dùng ba tấc lưỡi để cai trị thì cũng dễ trở thành xu thời, chiều theo dư luận. Từ đó từ sophista được gán ý nghĩa tiêu cực là “ngụy biện”, và họ bị ông Socrates chỉ trích.
[10] Summa Theol., I, q.46, a.2.
[11] Francis Bacon được xem như cha đẻ của phương pháp này với tác phẩm Novum Organum (1620), thay thế quyển Organon của Aristote.
[12] G. Harder, “Natura” trong: Dizionario dei concetti biblici del Nuovo Testamento, (a cura di L. Coenen et al.), EDB, Bologna, 1976, 1078-1080.
[13] Florio, Lucio. 2016. “Teología y medioambiente”. Trong: Diccionario Interdisciplinar Austral, ed. Claudia E. Vanney, Ignacio Silva y Juan F. Franck. http://dia.austral.edu.ar/Teología_y_medioambiente
[14] X. Summ. Theol. , q.29, a.1, ad 4m. trưng ra 4 nghĩa khác nhau, theo Aristote: 1) sự sinh sản; 2) nguyên ủy nội tại của chuyển động; 3) chất thể và mô thể của một vật; 4) bản tính của một vật. Nhưng ý nghĩa chính xác nhất là bản tính: “no­men autem naturae hoc modo sumptae vide­tur significare essentiam rei, secundum quod habet ordinem vel ordinationem ad propriam operationem rei, cum nulla res propria desti­tuatur operatione” (De Ente et Essentia, c. 1).
[15] Josep M. Rovira Belloso, “Naturaleza”, in: Diccionario teologico. El Dios cristiano (ed. X. Pikaza, – N. Silanes) Secretariado Trinitario, Salamanca 1992.
[16] Khi bàn về Thiên Chúa, các từ essentia, natura, substantia được dùng như đồng nghĩa; nhưng xét theo nguồn gốc, mỗi từ muốn nhấn đến một khía cạnh nào đó: essentia bởi động từ esse (to be, “là”), định nghĩa bản chất; natura muốn nói nguyên ủy hành động; substantia muốn nói đến cái bất biến, bên trên những đổi thay (đối lại với các accidens).
[17] Summa Theologica, I, q.1, a.8, ad 2m. Một công thức tương tự: Gratia supponit naturam (I-II, q.99; a.2, ad 1m; II-II, q.10, a.10; q.104, a.6). J.P. Torrell, Thomas d’Aquin, in: “Dictionnaire de Spiritualité”, vol. XV, col. 767-768. Nguyễn Hữu Nghị, Tương quan giữa tự nhiên và ân sủng trong tư tưởng tôn sư Tô-ma, TSTH số 55 (tháng 1/2012) tr. 61-80.
[18] X. Luật tự nhiên và đối thoại văn hóa, TSTH số 55 (tháng 1 năm 2012), trang 81-109, giới thiệu văn kiện của Ủy ban Thần học quốc tế: “Đi tìm một nền luân lý phổ quát: một cái nhìn mới về luật tự nhiên” (2008). Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo bàn về lex naturalis ở các số 1934-1960.
[19] X. Phan Tấn Thành, Mang Tin Mừng vào các thực tại trần thế (Đời sống tâm lý XIII) (Hà Nội: Tôn Giáo, 2015), Chương Ba: “Con người và nhân quyền”, tr. 77-123.
[20] X. Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo, (2004), số 155-156.