Hiển thị các bài đăng có nhãn Tín lý Tổng quát. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tín lý Tổng quát. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 1 tháng 1, 2024

THẦN HỌC TỰ DO

Thời sự Thần học - Số 94, Tháng 11 Năm 2021, tr. 108-119. 

_Tsth_ 

I. Khái niệm: Liberal Theology, Théologie libérale
II. Những giai đoạn phát triển
  1. Phê bình Kinh Thánh và tín điều
  2. Ritschl, Herrmann, von Harnack
  3. Trường phái lịch sử các tôn giáo
III. Những ảnh hưởng đối với việc nghiên cứu thần học
  1. Giải thích Kinh Thánh
  2. Đi tìm Đức Giêsu lịch sử
IV. Khủng hoảng và suy tàn

Chủ Nhật, 24 tháng 12, 2023

KHÁI NIỆM VỀ TỰ DO TRONG KINH THÁNH

Thời sự Thần học - Số 94, Tháng 11 Năm 2021, tr. 73-91. 

_Jürgen Blunck_ 
I. Văn hóa Hy lạp
II. Cựu Ước
III. Tân Ước
IV. Áp dụng mục vụ
Nguồn: “Libertà”, in:Coenen – E. Beyreuther – H. Bietenhard (a cura di), Dizionario dei concetti biblici del Nuovo Testamento Ed. Dehoniane, Bologna 1986 (terza edizione), trang 918-926.

Thứ Năm, 21 tháng 12, 2023

TỰ DO : NHỮNG KHÍA CẠNH THẦN HỌC

Thời sự Thần học - Số 94, Tháng 11 Năm 2021, tr. 52-72. 

_Ignacio Carrasco De Paula_ 

I. Dẫn nhập
II. Tự do theo Kinh Thánh, Truyền thống, Huấn quyền
III. Những vấn đề mang tính cách tín lý
IV. Những vấn đề mang tính cách luân lý
Tác giả là nguyên viện trưởng đại học Santa Croce ở Roma, và nguyên chủ tịch Hàn-lâm viện Giáo hoàng về sự sống (2010-2016). Nguồn: Gran Enciclopedia Rialp, 1991. https://mercaba.org/Rialp
/L/libertad_teologia.htm

Thứ Ba, 5 tháng 12, 2023

THẦN HỌC GIẢI PHÓNG : LỊCH SỬ VÀ PHÁT TRIỂN

Thời sự Thần học - Số 94, Tháng 11 Năm 2021, tr. 15-51.

 _Carlo Molari_ 

I. Thời kỳ thai nghén
II. Các giai đoạn: 1/ bắt đầu; 2/ củng cố; 3/ đàn áp; 4/ mở rộng
III. Hứng khởi và nền tảng Kinh Thánh
IV. Phương pháp
V. Quy chiếu về người nghèo: mầu nhiệm Đức Kitô và Giáo hội
VI. Chứng tá của các vị tử đạo
VII. Sự mở rộng THGP sang các lãnh vực và đại lục khác
VIII. Phụ thêm. ĐTC Phanxicô với THGP
Tác giả nguyên là giáo sư của nhiều Đại học Giáo hoàng Roma (Urbaniana, Lateranum), biên tập viên tạp chí CONCILIUM
Nguồn: La teologia della liberazione: storia e sviluppi attuali. Đây một bài thuyết trình tại Fano (Italia) ngày 6/6/2014, khai triển mục từ “Théologie de la libération” đăng trên Dictionnaire critique de théologie do Jean-Yves Lacoste chủ biên (Paris: Presses Universitaires de France, 1999).
https://www.associazioneapito.org/app/download/11408725612/La+teologia+della+liberazione....+Carlo+Molari.pdf?t=1489146551
Chú thích của người dịch: Nhiều từ ngữ Tây Ban Nha có thể chuyển sang tiếng Việt bằng nhiều từ khác nhau, vì thế chúng tôi phải thích ứng tùy theo mạch văn: Liberación có thể dịch là “giải phóng” hay “giải thoát”; Pueblo có thể dịch là “nhân dân, dân tộc, dân chúng”, cũng như popular có thể dịch là “nhân dân, bình dân, dân gian”; Pobre có thể dịch là “nghèo khổ, bần cùng”; comunidad: “cộng đoàn” hay “cộng đồng”.
Chữ viết tắt: THGP = thần học giải phóng

Thứ Năm, 13 tháng 7, 2023

HUẤN GIÁO VỀ TÌNH HUYNH ĐỆ

Thời sự Thần học - Số 91, Tháng 2 Năm 2021, tr. 135-160. 

_José-Román Flecha-Andrés_ 

Tác giả, giáo sư thần học luân lý tại đại học Salamanca (Tây Ban Nha), điểm qua những khía cạnh lý thuyết của đạo lý Kitô giáo về tình huynh đệ (theo giáo phụ và huấn quyền), và phân tích vài khía cạnh thực hành dựa theo Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo.
Bố cục
1. Một cuộc khám phá không dễ dàng
  1.1. Những khác biệt giữa anh chị em và nguyên tắc cảm thông
  1.2. Những khuôn mẫu huynh đệ
2. Một truyền thống đức tin
  2.1. Anh em trong Con Thiên Chúa
  2.2 .Công đồng Vaticanô II
  2.3. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo
3. Tin Mừng của tình huynh đệ
  3.1. Loan báo
  3.2. Cử hành
  3.3. Phục vụ
Nguồn: “La fraternidad como vocación ética”, in: El Dios y Padre de nuestro Señor Jesucristo (XX Simposio Internacional de Teología de la Universidad de Navarra, Servicio de Publicaciones de la Universidad de Navarra, 2000, pp.409-425.

Chủ Nhật, 9 tháng 7, 2023

TÌNH HUYNH ĐỆ KITÔ GIÁO

Thời sự Thần học - Số 91, Tháng 2 Năm 2021, tr. 108-134.

_Phan Tấn Thành_

I. Kinh Thánh
  A. Cựu Ước: 
    1/ Người anh em.  2/ Nền tảng của tình huynh đệ.
    3/ Mặt trái và mặt phải của các anh em. 4/ Niềm hy vọng
  B. Tân Ước
    1/ Anh em theo nghĩa đen. 2/ Anh em theo nghĩa bóng.
    3/ Tình huynh đệ và Huynh đoàn. 4/ Nền tảng của tình huynh đệ
II. Lịch sử Giáo hội
  A. Thời các giáo phụ.
  B. Các Dòng tu.
  C. Huấn quyền cận đại

Thứ Hai, 7 tháng 2, 2022

PHẢI CHĂNG: “... LỊCH SỬ CỦA TỰ DO BẮT ĐẦU BẰNG SỰ DỮ…”

Thời sự Thần học – Số 1, tháng 3/2010, tr. 48-58.

_Duy Khánh_

PHẢI CHĂNG: “... LỊCH SỬ CỦA TỰ DO BẮT ĐẦU BẰNG SỰ DỮ…” (E. Kant)?

Đó là một phần lời của Emmanuel Kant trong nguyên văn “lịch sử của thiên nhiên bắt đầu bằng sự tốt lành, bởi vì nó là công trình của Thiên Chúa. Lịch sử của tự do bắt đầu bằng Sự Dữ, bởi vì nó là công trình của con người”. Con người vốn quay quắt, xoay sở để sống sao cho tự do hết mình. Họ muốn sống đầy, sống viên mãn, sống rong chơi “thần thông du hí”. Nhưng khốn nỗi, tự do ấy có khởi đầu là Sự Dữ, và rồi, càng đi tới, Sự Dữ lại tràn chảy, loang lổ và biết bao cảnh nhiễu nhương xảy ra. Bernanos đã từng nghĩ rằng: “Xì-căng-đan của thế giới không phải là đau khổ, mà là tự do. Thiên Chúa đã dựng nên thụ tạo tự do, đó là Xì-căng-đan lớn nhất bởi vì mọi Xì-căng-đan khác đều phát xuất từ đó” (G. Bernanos, “la liberté, pour quoi faire?”, Paris, Gallimard, coll. “Idée”, 1972, p.224). Bài này bàn về tự do, một khởi đầu của Sự Dữ.

Thứ Năm, 14 tháng 10, 2021

SỰ DỮ QUA NHÃN QUAN HIỆN TƯỢNG LUẬN-THÔNG DIỄN HỌC CỦA PAUL RICOEUR

Thời sự Thần học - Số 93, tháng 08/2021, tr. 175-214

_ Nguyễn Đoàn Tân, O.F.M._

Lời mở: biểu tượng mời gọi suy tư
I. Thần lý học lý giải sự dữ
Sự dữ và phạm vi của thần lý học
Thần lý học “phú hồn” (soul-making) của Irenê
Thần lý học “ý chí tự do” (free-will) của Augustine
II. “Đường vòng” hiện tượng luận-thông diễn học
Vấn đề tồn đọng trong thần lý học
Gắn kết giải thích học vào hiện tượng luận
Hiểu lịch sử & hiểu chính mình
III. Hiệu quả của “đường vòng”
Biểu tượng-máy dò thực tại: 1) Ô uế, 2) Phạm tội, 3) Có lỗi
Huyền thoại-lịch sử lý tưởng: 1) Huyền thoại Enuma elish,
2) Bi kịch Hy Lạp, 3) Sự tích Adam, 4) Sấm truyền Orphism
IV. Đóng góp vào suy tư thần học
Chủ thể và sự dữ
Biểu tượng và ngôn ngữ thần học
Kết luận


Thứ Tư, 17 tháng 6, 2020

CÁI ĐẸP TRONG MẠC KHẢI KITÔ GIÁO THEO HANS URS VON BALTHASAR: Từ siêu việt thần học đến figure của Kitô học “tự huỷ”

Thời sự Thần học - số 73, tháng 8/2016, tr. 86-110

_Phê Ny Ngân Giang, O.P._

  1. Vinh quang như một siêu việt thần học.
  2. Cái đẹp trong lãnh vực siêu hình.
  3. Chức năng tổng thể của cái đẹp.
  4. Từ cái đẹp thần học cho đến vở thần kịch.
  5. Một Kitô học tự hủy trong ngôn ngữ figureanalogia entis.

Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2020

THẦN HỌC ĐÔNG PHƯƠNG VÀ THẦN HỌC TÂY PHƯƠNG

Thời sự Thần học - số 72, tháng 5/2016, tr. 110-162

_Raniero Cantalamessa, OFM Cap._

Trong bài này, “Đông phương” và “Tây phương” không hiểu theo nghĩa địa lý vào thời nay, nhưng theo nghĩa lịch sử thời các giáo phụ: các Giáo hội nằm ở mạn Đông và mạn Tây của Đế quốc Rôma, đôi khi được gom thành hai khối Hy Lạp và Latinh, tượng trưng cho ngôn ngữ và truyền thống văn hóa khác nhau[1]. Do những hiểu lầm, hai bên đã tách ra thành hai Giáo hội “Chính Thống” và “Công giáo”, và ra vạ tuyệt thông cho nhau năm 1054. Nhờ những cuộc nghiên cứu lịch sử, người ta nhận thấy rằng cả hai bên đều chia sẻ cùng một “đức tin” mặc dù có sự khác biệt về “thần học”, nghĩa là cách thức diễn đạt đức tin.

Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2020

NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ THẦN HỌC TRẢI QUA LỊCH SỬ KITÔ GIÁO

Thời sự Thần học - số 72, tháng 5/2016, tr. 77-109

_José M. A. Rovira Belloso_ 

Tác giả trình bày những phương pháp “làm thần học” khác nhau trong lịch sử Kitô giáo.
I. Trước hết, tác giả ôn lại những ý nghĩa khác nhau của hạn từ theologia trong triết học Hy Lạp và Kitô giáo tiên khởi.
II. Kế đó, tác giả lần lượt điểm qua các phương pháp thần học trải qua tám giai đoạn của lịch sử Giáo hội: 1/ giáo phụ; 2/ đan tu; 3/ kinh viện; 4/ tranh biện (tk XVI); 5/ sau công đồng Trentô; 6/ thế kỷ XIX; 7/ Tân kinh viện; 8/ thế kỷ XX.
III. Sau cùng, tác giả mô tả sự khác biệt giữa ba ngành thần học thời nay dựa theo mục tiêu: 1/ thần học nền tảng; 2/ thần học thực chứng; 3/ thần học hệ thống.
Tác giả là cựu giáo sư phân khoa thần học Catalunya (Barcelona). Nguồn: Introducción a la Teología, BAC Madrid 1996, (c. II: Teología y Teologías), p.52-78.

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2020

Ý NGHĨA CỦA LỊCH SỬ THEO KITÔ GIÁO: Hy vọng và tình yêu lân tuất

Thời sự Thần học - số 72, tháng 5/2016, tr. 37-57

Pedro Barrajón, L.C.

Lịch sử có ý nghĩa gì không, hay chỉ là một chuỗi nhưng biến cố liên tiếp nhau chẳng có liên hệ gì với nhau? Bài này muốn tìm câu trả lời của thần học Kitô giáo về ý nghĩa của lịch sử. Trước hết, tác giả trình bày ba văn hào nổi tiếng trong lịch sử Giáo hội: thánh Augustinô, viện phụ Gioakim de Fiore, Giambattista Vico. Kế đó, tác giả trình bày quan điểm dựa trên khái niệm về Thiên Chúa quan phòng qua việc tạo dựng và cứu chuộc. Việc tạo dựng và cứu chuộc biểu lộ tình yêu lân tuất của Thiên Chúa đối với nhân loại. Tình yêu lân tuất đặt nền tảng cho niềm hy vọng vào một thế giới trong đó sự thiện sẽ thắng sự dữ. Vì thế, cái nhìn của Kitô giáo về lịch sử mang tính tích cực, mặc dù những hoàn cảnh bên ngoài xem ra tiêu cực hoặc bế tắc dưới cái nhìn của con người.
Nguyên tác: Senso cristiano della storia, speranza e amore misericordioso, in: Alpha Omega, XII, n. 2, 2009, pp. 259-274.
Viết tắt : GS = Gaudium et Spes
Từ khi con người xuất hiện trên mặt đất, câu hỏi về ý nghĩa đã được đặt ra: con người muốn biết ý nghĩa của cuộc sống, của hoạt động, của vận mạng của mình. Thực ra, câu hỏi về ý nghĩa được nêu lên từ khi con người chấp nhận có những thực tại siêu hình và luân lý, dựa theo đó mà con người đối chiếu cuộc đời của mình hoặc lịch sử của một dân tộc. Không lạ gì mà chủ nghĩa duy-tương-đối (relativism) không chấp nhận ý nghĩa của lịch sử hoặc của thực tại nhân sinh.

I. Tầm quan trọng của việc nêu lên vấn đề ý nghĩa trong phạm vi lịch sử


Câu hỏi về ý nghĩa của lịch sử được nêu lên bởi vì con người nhận thấy nhiều điểm bất cập trong lịch sử. Giả như lịch sử chẳng có ý nghĩa gì, hoặc giả như mọi sự đã được tiền định rồi, thì ta đâu cần phải nỗ lực để thay đổi hoặc cải thiện nó. Vì thế tiên vàn câu hỏi về ý nghĩa mang tính cách triết học, và cũng mang tính cách thần học nữa. Thực ra, câu hỏi này thường do thần học gợi lên, rồi chuyển sang các lãnh vực kiến thức khác.

Trong khung cảnh văn hóa ngày nay, do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy-tương-đối và chủ nghĩa thực nghiệm, câu hỏi về ý nghĩa xem ra vô ý nghĩa, không nên gợi lên làm gì. Tuy nhiên, nếu lịch sử không có ý nghĩa, thì dòng đời chỉ là một trò chơi may rủi, để rồi kết thúc trong hư vô. Đứng trước những chủ trương tất định mù quáng ấy, chủ nghĩa Marx phản ứng lại và đã ấn định một chiều hướng cho dòng lịch sử, dồn hết nỗ lực vào việc xây dựng một regnum hominis (vương quốc của con người) kỷ nguyên xã hội cộng sản.

Chủ nghĩa Marx đã gợi lên niềm hy vọng cho biết bao nhiêu người trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, học thuyết này đã tan vỡ không chỉ vì những luận cứ lý thuyết nhưng qua thực tế của các chế độ cộng sản. Vì lý do đó mà vấn đề ý nghĩa của lịch sử được đặt lại, với những viễn ảnh mới.

Kitô giáo luôn mang theo một ý thức cao độ về lịch sử, đặt nặng tầm quan trọng và giá trị của lịch sử trong cuộc sống cá nhân và tập thể, bởi vì Kitô giáo trình bày lịch sử cứu độ đặt trọng tâm ở tín điều Ngôi Lời nhập thể. Thật vậy, trong biến cố này, Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa đã chạm đến thời gian, và trở thành trụ cột của lịch sử, cũng như nguyên ủy và cứu cánh của nó. Đức Giêsu Kitô trở nên Đấng Cứu thế, không những của từng cá nhân mà còn của lịch sử nhân loại nữa. Con người luôn bị thôi thúc bởi câu hỏi về ý nghĩa của lịch sử mỗi khi muốn tổ chức xã hội, khi nhìn lại quá khứ và chuẩn bị cho tương lai.

II. Những giải đáp quan trọng về ý nghĩa lịch sử trong nội bộ Kitô giáo


Với công đồng Vaticanô II, có thể nói rằng Giáo Hội có ý thức: “chìa khóa, trung tâm và cứu cánh của lịch sử nhân loại nằm ở Đức Kitô là Thầy và là Chúa của mình”[1]. Theo nghĩa này, cái nhìn Kitô giáo về lịch sử hoàn toàn đối nghịch với cái nhìn của chủ nghĩa vô thần đặt con người là trung tâm duy nhất của lịch sử, là cứu cánh cho chính mình, là tác nhân của lịch sử của mình[2]. Cái nhìn ấy lan rộng trong văn hóa Âu châu kể từ khi ông Voltaire, trong tác phẩm Essai sur les moeurs et l’esprit des nations (Khảo luận về phong tục và tinh thần của các dân tộc), đã trình bày nền tảng của lịch sử nhân loại, không còn dựa trên ý muốn của Thiên Chúa và sự quan phòng, như các tín hữu vẫn quen thuộc xưa nay, nhưng trên ý muốn của con người và những tiên liệu của lý trí[3]. Xem ra cái nhìn này đã tràn ngập văn hóa hiện đại và hậu-hiện-đại: người ta không muốn cho Thiên Chúa nhúng tay vào tự do và lịch sử của con người, ra như tác động của Thiên Chúa cạnh tranh với hành động của con người. Con người muốn là kẻ duy nhất tạo ra ý nghĩa cho vận mệnh của lịch sử.

Để hiểu rõ hơn ý nghĩa của lịch sử dưới viễn ảnh Kitô giáo, chúng ta nên ôn lại quan điểm của vài tác giả đã gây ảnh hưởng đáng kể trong lãnh vực này.

A. Thánh Augustinô: Thiên Chúa, Chủ tể lịch sử. Đối chiếu giữa hai đô thành


Trước hết, chúng ta bắt đầu với thánh Augustinô, nhà thần học nổi tiếng nhất của Tây phương Kitô giáo về lịch sử. Trong tác phẩm De civitate Dei (Đô thành của Thiên Chúa), tác giả đã đối chiếu giữa cái nhìn Kitô giáo về lịch sử, dựa trên đức tin, với cái nhìn Hy Lạp, dựa trên lý tính: “Trong các loài hữu hình, kẻ lớn nhất là con người; trong các loài vô hình, kẻ lớn nhất là Thiên Chúa. Thế giới hiện hữu thì chúng ta thấy được; Thiên Chúa hiện hữu thì chúng ta tin”[4]. Những người Hy Lạp dựa trên điều hữu hình của lý luận; người Kitô hữu dựa trên hành vi đức tin. Thánh Augustinô muốn đối chọi giữa cái nhìn Kitô giáo về lịch sử, hướng về niềm hy vọng cuộc sống vĩnh cửu, với cái nhìn của các triết gia cổ thời, đề ra lý tưởng về “xoay vần trường cửu” (eternal retour / eternal return), nhưng lại không đạt đến cuộc sống hạnh phúc vĩnh viễn. Người Kitô hữu đặt niềm hy vọng của mình trên một sự mới lạ tuyệt đối đã xâm nhập vào lịch sử một cách bất ngờ, chứ không dựa trên những suy tư triết học hoặc lý luận khoa học. Sự cứu chuộc của Kitô giáo bao hàm một sự cứu độ toàn thể linh hồn con người, trong đó “diễn ra một điều chưa từng có, một cái gì tuyệt diệu, và đó là hạnh phúc không bao giờ chấm dứt”[5]. Luận cứ dứt khoát để kết thúc cuộc tranh biện chống lại những người ủng hộ chủ trương “xoay vần trường cửu” là Đức Kitô: “bởi vì nếu Đức Kitô đã chết một lần vì tội lỗi chúng ta và đã chỗi dậy từ cõi chết, thì Người sẽ không còn chết lần nữa”[6]. Biến cố cứu độ của Đức Kitô tác động một lần trong lịch sử đã cắt đứt tất cả các sự cứu độ khác. Tư tưởng này làm sáng tỏ ý nghĩa của khẩu hiệu dòng Chartreux “stat crux, dum volvitur orbis” (thập giá vẫn đứng trơ, khi vũ trụ quay vòng): thập giá là một biến cố cứu độ dứt khoát, mang lại cho lịch sử một sự ổn cố thần linh, trong khi thế giới trải qua các cuộc biến động chẳng đi tới đâu. Tác giả K. Löwith đã chú giải chính xác như sau : “Tư tưởng hiện đại vẫn còn đang sống giữa hai biểu tượng : Thập giá và vòng tròn ; và lịch sử tâm linh của con người Tây phương là một nỗ lực dung hòa giữa Hy Lạp cổ thời và Kitô giáo. Nỗ lực ấy không thể nào thành công vì phải đạt được một thỏa hiệp giữa hai điều không thể nào hòa hợp được. Cả Nietzsche lẫn Kierkegaard đã cho thấy rằng sự phân rẽ quá rõ ngay từ đầu giữa Kitô giáo và ngoại giáo”[7].

Cái nhìn của thánh Augustinô về lịch sử đặt trọng tâm vào biến cố Đức Kitô trong lịch sử. Trong viễn ảnh ấy, các đế quốc vĩ đại, tựa như đế quốc Rôma, chỉ giữ vai trò phụ thuộc. Điều thực sự quan trọng trong lịch sử không phải là vẻ oai hùng của các đế quốc, nhưng là sự cứu độ vĩnh viễn của con người trong tương lai cánh chung. Lịch sử trần thế tùy thuộc vào những nguyên lý nâng đỡ nó: kể từ nguyên lý tuyệt đối thứ nhất của sự tạo dựng cho đến nguyên lý cánh chung cuối cùng, dòng lịch sử diễn ra dưới cuộc chiến đấu giữa civitas Dei (đô thành của Thiên Chúa) và civitas terrena (đô thành trần thế). Như ta đã biết, hai đô thành này không đồng hóa với Giáo hội hữu hình và Đế quốc. Đúng ra đó là hai xã hội huyền bí với hai cái nhìn đối nghịch về thực tại. Abel và Cain là hai người khai sáng hai đô thành ấy. Dưới cái nhìn của thánh Augustinô, dòng lịch sử là một cuộc hành hương. Đô thành của Thiên Chúa trong lịch sử quả là một đô thành lữ hành (civitas peregrinans). Hai đô thành được hướng dẫn bởi các nguyên tắc đối nghịch nhau: đô thành của Thiên Chúa được điều khiển bởi lòng yêu mến Thiên Chúa đến nỗi khinh chê bản thân; đô thành trần thế được điều khiển bởi lòng yêu mến bản thân đến nỗi khinh chê Thiên Chúa. Dưới mắt của loài người, lịch sử diễn ra trong cuộc giao tranh ấy; nhưng dưới mắt của Thiên Chúa, tất cả đã được xếp đặt.

Như vậy, theo mô hình của thánh Augustinô, lịch sử suy phục Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa bị lệ thuộc vào dòng biến đổi, như Hegel quan niệm. Thiên Chúa làm chủ dòng lịch sử. Con người chỉ nhìn thấy một tí chút chương trình của Thiên Chúa, và duy một mình Thiên Chúa mới thấu hiểu toàn diện. Thiên Chúa là Chủ tể của lịch sử đồng thời cũng là nhà sư phạm, Ngài dạy dỗ con người qua các sự kiện lịch sử, nhất là qua sự đau khổ.

Dựa theo Kinh Thánh, thánh Augustinô chia lịch sử thành sáu thời kỳ, tương đương với sáu ngày tạo dựng: 1) từ khởi nguyên đến ông Noe; 2) từ ông Noe đến ông Abraham; 3) từ ông Abraham đến vua Đavít; 4) từ vua Đavít đến cuộc lưu đày ở Babilon; 5) từ cuộc lưu đày Babilon đến cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu; 6) thời kỳ chót, từ cuộc giáng sinh của Chúa Kitô cho tới khi Người trở lại. Tác giả để mở thời kỳ, nhưng ông Lactantius đã tính rằng thế giới sẽ kết thúc vào khoảng năm 600 CN. Vào thời Trung cổ, thánh Tôma chấp nhận lối phân chia này. Thánh Bonaventura điều chỉnh nó để có thể thích nghi với học thuyết của Joachim de Fiore[8].

Với một cái nhìn siêu nhiên về lịch sử như vậy, thánh Augustinô chẳng quan tâm lắm đối với lịch sử thế gian. Là một công dân Rôma, ông tôn trọng giá trị của đế quốc Rôma, nhưng dưới cặp mắt đức tin, ông coi nhẹ quyền lực chính trị và quân sự của bất cứ đế quốc nào[9]. Đối với ông, hai biến cố trọng đại có ảnh hưởng sâu đậm đối với lịch sử nhân loại là tội nguyên tổ và núi Calvariô. So sánh với hai biến cố đó, tất cả các biến cố khác đều chẳng đáng kể gì. Đối với ông, điều quan trọng là ưu thế của tác động Thiên Chúa, vượt ngàn trùng trên tác động của con người[10]. Xét dưới cái nhìn thuần túy con người, lịch sử là một chuỗi các biến cố đặc thù mà ta không biết được khía cạnh tổng quát của chúng. Vì lẽ ấy, ta không thể thật sự có một lịch sử về các biến cố này[11].

B. Gioakim de Fiore: Tam Vị với lịch sử


Vào thời Trung cổ, một tác giả nổi bật về thần học lịch sử là viện phụ Gioakim de Fiore (1131-1202), bị công đồng Latêranô IV kết án các luận đề về Chúa Ba Ngôi. Ông cảm thấy được thu hút muốn đi tìm một sự hiểu biết về lịch sử, và ông liều đưa ra một giải thích qua thuật ngữ “Tin Mừng vĩnh cửu” dựa theo đoạn sách Khải huyền (14,6): “Rồi tôi thấy một thiên thần khác bay qua trên đỉnh vòm trời, mang một tin mừng vĩnh cửu để loan báo cho các người ở trên mặt đất, cho mọi dân, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ và mọi nước”. Giám mục Bossuet và nhiều nhà chú giải khác hiểu thuật ngữ này theo nghĩa là Tin Mừng sẽ được truyền bá, một khi các lạc giáo đã được chinh phục. Còn viện phụ Gioakim hiểu rằng hàng giáo phẩm nhiễm mùi trần tục phải biến đi, nhường chỗ cho một cộng đoàn các thánh nhân; những người này sẽ cứu vãn thế giới khỏi cảnh phong hóa suy đồi.

Các tác phẩm của viện phụ Gioakim đã được giải thích theo nhiều hướng khác nhau. Chẳng hạn như Gherardo di San Donnino, trong sách Liber introductorius ad Evangelium aeternum (1254), cho rằng các lời tiên tri của viện phụ Gioakim đã ứng nghiệm nhờ thánh Phanxicô và dòng anh em hèn mọn (mà Gherardo là một thành viên). Việc giải thích này đã dẫn đến việc tổng hội của Dòng truất chức cha tổng quyền Gioan Parma tổng quyền vì đã quá nhân nhượng cha Gherardo. Vị kế nhiệm là cha Bonaventura, giáo sư thần học tại Paris, đã tìm cách vớt vát học thuyết của Gioakim bằng cách chen thêm những đạo lý về Đức Kitô[12].

Vào khoảng năm 1190-95, viện phụ Gioakim nói rằng mình đã nhận được một thị kiến mạc khải những mầu nhiệm của lịch sử nhờ hiểu biết các biểu tượng của Kinh Thánh, đặc biệt là sách Khải huyền. Dựa vào đó, ông giải thích lịch sử theo chiều hướng Thiên Chúa Ba Ngôi. Kỷ nguyên thứ nhất là của Ngôi Cha, kỷ nguyên của luật pháp, sợ hãi, nô lệ. Kỷ nguyên thứ hai bắt đầu từ ông Zacaria và trổ bông kết quả với cuộc nhập thể, đời sống, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Đó là kỷ nguyên của ân sủng, khởi đầu cho tự do. Kỷ nguyên thứ ba bắt đầu từ thánh Biển Đức nhưng sẽ được biểu lộ toàn vẹn khi các đan sĩ thay thế các giáo sĩ. Đó sẽ là kỷ nguyên plenitudo intellectus, khi nước sẽ được hoàn toàn biến đổi nên rượu. Ông tính toán thời gian qua các thế hệ, ước chừng 30 năm cho mỗi thế hệ. Như thế các đồ đệ của ông quả quyết rằng, trong vòng hai thế hệ nữa kể từ khi thầy mất, nghĩa là khoảng năm 1260, thì sẽ tận thế.

Điểm độc đáo của ông không phải ở chỗ quan niệm dòng lịch sử dựa theo Kinh Thánh, cho bằng áp dụng vào việc tiên đoán tương lai. Dựa theo đó, chìa khóa để hiểu biết tương lai là nắm bắt ý nghĩa của quá khứ. Trong kỷ nguyên thứ ba, kỷ nguyên của Thánh Linh, hàng giáo sĩ sẽ nhường chỗ cho hàng ngũ đan sĩ. Hàng ngũ đan sĩ, được Thánh Linh hướng dẫn, đã hiện diện trong trần gian rồi, chuẩn bị cho thời tận cùng. Trong kỷ nguyên cuối cùng này, sẽ không còn các bí tích và lời giảng nữa, bởi vì những nhà chiêm niệm sẽ có cảm nghiệm trực tiếp sâu xa về Thiên Chúa. Nếu chính ông Gioakim chưa xác định thời điểm của những biến cố này, thì các đồ đệ đã nhìn nhận ông như thánh Gioan Tẩy giả của kỷ nguyên thứ ba, và nhìn thánh Phanxicô như là thủ lãnh mới, Đức Kitô mới. Hàng tư tế cần phải biến đi, và chỉ còn tồn tại đời sống của Tin Mừng cách triệt để, với nếp sống khó nghèo tuyệt đối, tạo ra một cộng đồng trong đó không có phẩm trật, không có bí tích, không có thần học, không có đọc Kinh Thánh. Những tu sĩ này ở vào tư thế đối nghịch với giáo hoàng, và vị này cần phải biến đi; họ cũng đối nghịch với hoàng đế, là tay sai của quỷ vương cũng như bộ máy hành chính của Giáo hội.

Giáo hội đã kết án lập trường lạc giáo này, tuy vẫn tìm cách thu nhận những yếu tố tích cực trong đó. Trong việc giải thích lịch sử, viện phụ Gioakim có nhiều điều đi xa hơn thánh Augustinô. Thật vậy, niềm trông đợi một sự tiến bộ do Chúa quan phòng để đưa lịch sử cứu độ vào trong lịch sử phổ quát, là một tư tưởng mới mẻ so với thánh Augustinô. Ông Gioakim không bao giờ khước từ những lời tiên tri về sự canh tân hoàn toàn trật tự trần thế”[13]. Để đối phó với sự giải thích của viện phụ, Giáo hội phải viết lại quan điểm của mình về lịch sử bằng cách quy chiếu về Đức Kitô. Với Đức Kitô thời kỳ sung mãn đã đến. Nói đến một tương lai mà bỏ qua Đức Kitô như là đầu và là cứu cánh của lịch sử, đang khi trông đợi một trật tự mới mẻ tách rời Người ra khỏi Thánh Linh, thì quả thật là không còn trung thành với Tân Ước nữa. Đây là điều mà thánh Bonaventura chỉ trích ông Gioakim, mặc dù vẫn cố gắng thu nhận cái gì là tốt cho thần học lịch sử.

Tuy nhiên, đang khi theo thánh Augustinô và thánh Tôma, chân lý Kitô giáo đặt nền tảng trên một chuỗi những sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ tuy vẫn tiếp tục trong thời gian nhờ tác động của Thánh Linh, thì đối với ông Gioakim, chân lý mang một chiều hướng mở và tương đối. Vì thế có thể nói là tư tưởng của ông là một thứ “duy lịch sử”[14].

Mặc dù thuyết của ông mang nhiều giới hạn về thần học, nhưng qua các tu sĩ Phan sinh thuộc nhóm thần khí (Spirituales), điểm son của ông là làm thức dậy ý thức cánh chung của Hội thánh tiên khởi, nhìn về tận thế với niềm hy vọng lạc quan, bất chấp những biến cố bấp bênh của thời gian. Các đồ đệ của ông muốn nhen nhúm lòng ước ao nên thánh và chiêm niệm. Tuy nhiên cũng có người giải thích ý đồ của ông theo nghĩa phàm tục, tức là muốn tạo ra một xã hội cánh chung ngay ở trong dòng lịch sử, như các học thuyết về sau của Hegel, Lessing và Fichte hoặc Marx.

C. Giambattista Vico: “Tân Khoa học”


Với ông Giambattista Vico (1668-1744) chúng ta gặp thấy, không phải là một thần học gia nhưng là một triết gia muốn dùng lý trí để hiểu biết chương trình quan phòng của Thiên Chúa trong lịch sử. Trong việc định nghĩa tân-khoa-học, một phương thức được ông sử dụng là “thần học dân sự hợp lý về sự quan phòng”[15], một thứ chứng minh lịch sử cho hành vi quan phòng trong lịch sử. Chống lại quan điểm của Descartes muốn xây dụng một khoa học vật lý toán học, ông Vico không chấp nhận nguyên lý “Cogito ergo sum” (tôi tư duy, cho nên tôi hiện hữu), nhưng ông muốn đặt ra một nguyên lý tri thức luận riêng của mình: “cái đúng là cái đã thành hình” (verum quia factum). Như thế, Thiên Chúa là Đấng tác thành vũ trụ, nên là Đấng biết rõ vũ trụ tường tận hơn bất cứ ai khác. Một cách tương tự như vậy, những con người đã làm nên lịch sử nhân loại ngay từ thời thượng cổ đã có thể biết cách chắc chắn những nguyên tắc điều hành lịch sử do họ làm ra. Thật vậy, xem ra hiểu biết các định luật thiên nhiên (không do con người làm ra) thì khó hơn hiểu biết các định luật lịch sử do con người làm ra nhờ tự do của mình. Nguyên tắc của ông Vico để giải thích lịch sử có thể phát biểu như sau: “bởi vì ở đâu mà người làm ra sự việc kể lại chuyện ấy thì ở đấy lịch sử không thể nào chắc chắn hơn được nữa”[16]. Với nguyên tắc này, ông Vico muốn cấp cho môn sử học một quy chế khoa học mà vào thời của Descartes nó chưa có. Có thể xem đó là những bước chuẩn bị cho các khoa học nhân văn về sau này.

Trong tư tưởng của Vico, ý niệm quan phòng giữ một vài trò quan trọng, và đồng thời, “việc khám phá nguồn gốc lịch sử nhờ tinh thần của chúng ta và khả năng nắm bắt quá khứ, đặt nền cho một triết học của tinh thần con người dẫn đưa chúng ta đến Thiên Chúa xét như là quan phòng hằng cửu”.[17] Trong hệ thống tư tưởng của Vico, vai trò của quan phòng được đề cao đến nỗi ông cho rằng chủ nghĩa vô thần không thể nào thiết lập một triết học lịch sử đúng đắn được. Sự quan phòng tác động qua các luật lệ, các định chế xã hội và gia đình của các dân tộc, nhờ thế tân khoa học là một chứng minh cho tác động của quan phòng trong lịch sử nhân loại. Quan phòng không loại bỏ tự do của con người, vì tự do cũng là tác viên của tiến trình lịch sử. Tuy nhiên tự do biểu lộ như biến cố và sự kiện, vì thế các ý định đặc thù, (và chúng có thể lệch lạc), được vượt lên do những mục tiêu phổ quát hơn, do Thiên Chúa hướng dẫn. Như vậy Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử bằng việc hướng dẫn các hành động của con người hướng đến các mục tiêu mà Ngài muốn.

Sự quan phòng cũng hướng dẫn nhân loại qua các tôn giáo khác, nhờ vậy Thiên Chúa chuẩn bị cho họ đón nhận mạc khải toàn vẹn. Ông Vico không muốn làm công tác hộ giáo bênh vực Kitô giáo; ông chấp nhận nó như đạo thật, và ông ngạc nhiên khi khám phá rằng sự quan phòng đã hành động qua các tôn giáo nguyên thủy để chuẩn bị cho mạc khải sung mãn.

Cái nhìn của ông Vico về lịch sử đã du nhập một hệ thống chu kỳ, trong đó dòng lịch sử cần đến sự can thiệp của Chúa quan phòng để cho lịch sử trở về tình trạng nguyên thủy đức độ hơn. Ông không nói đến sự tiến triển của lịch sử hoặc sự hoàn tất tận cùng, nhưng xem ra ông muốn chứng tỏ rằng ý nghĩa của lịch sử là nhằm biểu lộ tác động của Chúa quan phòng. Kể cả việc trở về thời đại man rợ, dõi theo các chu kỳ lịch sử, cũng được Chúa quan phòng xếp đặt nhằm mục tiêu sư phạm. Cái nhìn của ông Vico về lịch sử chịu ảnh hưởng của thần học, nhưng các đường lối mà Chúa quan phòng được ông trình bày theo triết học, vì thế ông không đề cập đến thời cánh chung. Bởi vậy, cái nhìn của ông vừa mang tính thần học vừa mang tính triết học, và đã gây ra nhiều sự lẫn lộn cũng như nhiều sự chỉ trích của các người đương thời và hậu thế. Dưới phương diện thần học, người ta vạch ra sự thiếu sót ở chỗ khi bàn về Chúa quan phòng, ông đã bỏ qua việc Thiên Chúa can thiệp vào dòng lịch sử, đặc biệt nơi Đức Kitô, là trung tâm và chóp đỉnh của lịch sử nhân loại.

III. Ý nghĩa của lịch sử theo Kitô giáo, hy vọng và tình yêu lân tuất


Chúng ta đã thấy rằng khái niệm về Chúa quan phòng đã giữ vai trò quan trọng trong cái nhìn về lịch sử theo thánh Augustinô và Giambattista Vico, tuy dù có sự khác biệt giữa hai tác giả. Dĩ nhiên, khi bàn về lịch sử theo quan điểm Kitô giáo, ta không thể nào bỏ qua sự quan phòng, xét như là tác động của Thiên Chúa dẫn đưa thế giới, không những vật lý mà cả lịch sử nhân loại đến điểm hoàn tất, dựa theo kế hoạch tình yêu của Ngài. Thế giới vật lý, sân khấu nơi diễn ra lịch sử nhân loại, đã được tạo dựng như là bối cảnh của tình yêu Thiên Chúa quan phòng dành cho loài người. Thiên Chúa tạo dựng vì yêu thương. Việc tạo dựng không phải là kết quả của một định mệnh mù quáng, nhưng là của một kế hoạch cứu độ. Thực vậy, Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, tiếp nhận một trực giác của ông Karl Barth cho rằng “giao ước là lý do sâu xa của cuộc tạo dựng”[18], đã viết: “Thiên Chúa, là Cha toàn năng và thượng trí, hiện diện và hành động trong vũ trụ, trong lịch sử của mỗi thụ tạo, ngõ hầu mỗi thụ tạo và cách riêng, con người là hình ảnh của Thiên Chúa, có thể thực hiện cuộc sống như là một con đường được hướng dẫn bởi chân lý và tình yêu đến cùng đích của đời sống vĩnh cửu trong Ngài” [19].

Quan phòng là sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới và trong lịch sử. Đó là một sự hiện diện yêu thương của Đấng là Tình yêu và Thượng trí vô biên. Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới ách của tội lỗi, bị vùi dập dưới cảnh bơ vơ và dốt nát. Thiên Chúa đồng hành trong lịch sử nhân loại như một người anh đi bên cạnh chúng ta (Lc 24,15), cắm lều gần kề chúng ta (Ga 1,14). Thiên Chúa không xa lạ với những biến chuyển của lịch sử, với những tội ác trong lịch sử. Sự quan phòng của Thiên Chúa đã tác động cách đặc biệt nơi bản thân Đức Giêsu Kitô, nơi cuộc nhập thể và nơi mầu nhiệm của cuộc đời công khai của Người, nơi cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Người. Sự biểu lộ cao cả nhất của việc quan phòng là việc Thiên Chúa trao tặng Con của Ngài, việc trao tặng trở thành một sự kiện lịch sử và thay đổi lịch sử nhân loại. Với biến cố này, lịch sử nhân loại trở thành một lịch sử thánh, một lịch sử trong đó cuộc sống của mỗi cá nhân nhắm đến sự hiệp thông với cuộc sống của Thiên Chúa và của những người khác. Sự quan phòng được biểu lộ nơi bản thân Đức Kitô chứng tỏ Thiên Chúa liên tục đồng hành giữa chúng ta và trong chúng ta như một Đấng an bài ôm ấp chúng ta bằng tình yêu, thượng trí. Ngài hướng dẫn cách êm ái và cương quyết cuộc đời chúng ta, diễn tiến lịch sử và thậm chí các sự chống đối của chúng ta, ngõ hầu lịch sử hướng đến sự thành toàn của ngày thứ bảy[20].

Thần học của các Kitô hữu về lịch sử đều khởi đi từ tiền đề là Thiên Chúa không xa lạ với các diễn biến lịch sử. Các lối tiếp cận thì khác nhau, đôi khi tùy thuộc vào những hoàn cảnh cụ thể của mỗi tác giả. Thánh Augustinô khởi đi từ Kinh Thánh, từ Thiên Chúa siêu việt nhưng không xa lạ với con người và các hoạt động của nó. Nhưng có lẽ lịch sử theo thánh Augustinô không làm nêu bật vai trò của con người như là tác nhân tự do trong lịch sử. Quan điểm của viện phụ Gioakim nêu bật những khía cạnh cánh chung và đặc sủng, nhưng không theo sát Kinh Thánh, bởi vì vai trò của Đức Kitô không được tôn trọng đúng mức. Lịch sử của ông Vico trình bày sự quan phòng của Thiên Chúa trải qua tất cả mọi biến cố của lịch sử, nhưng quan điểm của ông lập lững giữa triết học và thần học, chứ chưa làm sáng tỏ nội dung phong phú của tư tưởng Kinh Thánh. Mặc dù những giới hạn của các quan niệm vừa kể, tất cả đều đã vạch ra những khía cạnh căn bản để làm sáng tỏ ý nghĩa của lịch sử theo Kitô giáo.

Đối với người Kitô hữu và nhà thần học, suy tư về ý nghĩa của lịch sử là một chuyện quan trọng khi đối chiếu với những băn khoăn của người đời: lịch sử nhân loại có một ý nghĩa gì không? Người Kitô hữu trả lời là có: lịch sử của nhân loại, tuy giữa những thăng trầm trong đó sự dữ đã len lỏi, có một ý nghĩa. Lịch sử không phải là một chuỗi những hiện tượng mù quáng kế tiếp nhau. Ta không thể áp dụng mô hình “ngẫu nhiên – tất định” cho dòng lịch sử. Sự hiện diện của Thiên Chúa quan phòng, với sự kiện nhập thể của Con Chúa, đã chứng tỏ rằng lịch sử có một ý nghĩa đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ mặc lịch sử cho ngẫu nhiên may rủi. Ngài có một kế hoạch yêu thương và cứu độ.

Một câu hỏi nảy lên: liệu chúng ta có thể biết được chương trình của Thiên Chúa về lịch sử, hay là chương trình này hoàn toàn vượt khỏi tầm mức chúng ta? Hẳn nhiên, khi sống trên đời này, ta không thể nào hiểu thấu ý nghĩa của lịch sử. Điều ấy thuộc về thời cánh chung. Nhưng, mặc dù còn nhiều khiếm khuyết, ta có thể biết được chương trình ấy trong mức độ chúng ta ngước mắt nhìn vào mạc khải để nắm bắt những tia sáng phát ra từ đó.

Chúng ta đã biết rằng Thiên Chúa hành động do tình thương; Ngài đã tạo dựng vũ trụ để biểu lộ vinh quang của Ngài[21]. Nếu tạo dựng và cứu chuộc không tách rời nhau và không thể tách rời nhau, và cứu chuộc là trung tâm của lịch sử nhân loại, thì ta có thể kết luận rằng ý nghĩa của tạo dựng và ý nghĩa của cứu chuộc chia sẻ với nhau cùng một mục đích và cùng một ý nghĩa. Thiên Chúa tạo dựng do tình yêu. Thiên Chúa cứu chuộc do tình yêu và trong lịch sử. Lịch sử trở thành sân khấu nơi Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài và tình yêu của Ngài đối với loài người. Cách riêng, tình yêu mà Thiên Chúa biểu lộ trong lịch sử nhân loại,
- một lịch sử của tội lỗi -, là tình yêu của lòng lân tuất và tha thứ; đó là một tình yêu cứu vớt và nâng dậy. Thánh Ambrosiô đã hiểu rõ điều đó khi diễn tả trong bài chú giải về sáu ngày tạo dựng : “Thiên Chúa đã tạo dựng bầu trời, nhưng tôi không thấy Kinh Thánh nói rằng Ngài nghỉ ngơi. Ngài đã tạo dựng mặt đất, nhưng tôi không thấy Kinh Thánh nói rằng Ngài nghỉ ngơi. Ngài đã tạo dựng mặt trời mặt trăng và tinh tú, nhưng tôi không thấy Kinh Thánh nói rằng Ngài nghỉ ngơi. Nhưng tôi đọc thấy rằng Ngài đã tạo dựng con người và lúc bấy giờ Ngài nghỉ ngơi, bởi vì nơi con người Ngài đã có kẻ để tha thứ tội lỗi”[22]. Lịch sử có ý nghĩa là để có thể biểu lộ vinh quang và tình yêu của Thiên Chúa, không phải bất cứ thứ tình yêu nào nhưng là tình yêu lân tuất. Thập giá là sự biểu lộ rõ rệt nhất lòng lân tuất của Thiên Chúa dành cho con người.

Thập giá là hành vi hạ cố sâu xa nhất của Thiên Chúa đối với con người, và là điều mà con người, đặc biệt vào những lúc khó khăn và đau khổ, nhìn lên như là số phận bất hạnh của mình. Thập giá là sự xoa dịu của tình yêu vĩnh cửu trên những vết thương sâu thẳm của cuộc sống nhân sinh[23].

Như vậy, ý nghĩa Kitô của lịch sử là niềm trông mong sự biểu lộ toàn diện của vinh quang Thiên Chúa, của tình yêu lân tuất của Ngài đối với loài người. Theo nghĩa này, những lời của thánh Phaolô trở nên đầy ý nghĩa:

Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Ngài. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm hy vọng là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang (Rm 8, 19-21).

Cùng với các thụ tạo, lịch sử sống thời chờ đợi, chờ đợi mạc khải trọn vẹn vinh quang của tự do con cái Chúa. Cũng như muôn loài thụ tạo, lịch sử sống niềm trông mong này tựa như người phụ nữ rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Lịch sử sống trong nỗi đau, trong đó điều dữ trộn lẫn với điều lành giống như cỏ lùng với lúa tốt. Toàn thể vinh quang Thiên Chúa chỉ tỏ lộ vào cuối lịch sử. Đang khi lịch sử tiến đến điểm sung mãn là sự mạc khải tuyệt đối tình yêu lân tuất của Thiên Chúa, các Kitô hữu cần sống trong hy vọng, tuy vẫn nắm chắc sự toàn thắng của tình yêu lân tuất nhờ bảo chứng của Thánh Linh (Rm 8, 22-25).

Thiên Chúa có khả năng biểu lộ tình yêu cao cả giữa những sự tồi tệ nhất, vì thế chúng ta đừng vấp ngã trước những sự dữ xem ra đang thắng sự thiện. Chúng ta đừng quên rằng Thiên Chúa có khả năng rút ra được hồng ân cứu chuộc từ sự dữ kinh khủng nhất của lịch sử, đó là việc kết án và giết hại Con Thiên Chúa làm người. Chính từ khả năng của Thiên Chúa đáp lại sự dữ bằng sự thiện như vậy mà Giáo hội múc lấy hy vọng và chuyển thông cho nhân loại.

Thiên Chúa đưa ra lời giải đáp cho sự dữ, không phải là bên trên lịch sử, nhưng là bên trong lịch sử, nhờ biến cố nhập thể của Ngôi Lời. Ta có thể khẳng định rằng Đức Kitô là trung tâm của lịch sử, bởi vì Người là mạc khải trọng đại nhất của vinh quang Thiên Chúa trong lịch sử và của tình yêu lân tuất của Thiên Chúa. Thiên Chúa của Kitô giáo là một vị Thiên Chúa quan tâm đến lịch sử, chứ không phải là một Ngọc Hoàng sau khi đã dựng nên vũ trụ thì bỏ mặc nó cho định mệnh. Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô dấn thân vào lịch sử và như vậy Ngài có khả năng cứu vớt nó khỏi sự dữ. Qua việc đưa tình yêu Thiên Chúa làm người vào lịch sử, Thiên Chúa cứu vớt thế giới và lịch sử. Vì thế ơn cứu độ Kitô giáo là lịch sử, phát xuất bởi lịch sử và mang lại một ý nghĩa cho lịch sử. Do đó, ta có thể nói rằng có một sự đan xen giữa lịch sử nhân loại và lịch sử cứu độ. Đó không phải là hai lịch sử song hành, nhưng là hai lịch sử chồng chéo nhau và nâng đỡ lẫn nhau. Đức Gioan Phaolô II đã nhận định như sau: “Lịch sử cứu độ luôn luôn cung cấp nguồn hứng mới để giải thích lịch sử của nhân loại”[24]. Lịch sử cứu độ không phải là một lịch sử tách rời khỏi lịch sử nhân sinh, nhưng là chìa khóa giải thích có khả năng giải đáp những thắc mắc thâm sâu nhất của cuộc đời con người. Vì thế nó là “lịch sử và siêu hình”[25], bởi vì trải qua lịch sử, (là lịch sử cứu độ), mà mở ra sự hiểu biết không những về bản tính con người cá vị, mà còn về một hữu thể được định hình trong lịch sử, mang lại cho nó một ý nghĩa. Nhưng ý nghĩa chung quyết của lịch sử vẫn còn chờ đợi sự hoàn tất viên mãn, chờ đợi sự biểu lộ vinh quang của Thiên Chúa và cũng là vinh quang của con người. Đang khi đợi chờ vinh quang ấy đến, thì trong giai đoạn này của lịch sử, chúng ta sống trong thái độ hy vọng. Nhân đức hướng Chúa này là đặc trưng của con người lữ hành homo viator. Khi nắm chắc rằng lịch sử có một ý nghĩa, rằng lịch sử không bị cuốn chìm theo những vòng xoáy của sự dữ xem ra thắng thế, người Kitô hữu nhận được sức mạnh của hy vọng. Ý nghĩa thần học của lịch sử thúc đẩy Đức Gioan Phaolô II khẩn khoản mời gọi hãy bước vào hy vọng. Trong quyển sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” (Varcare la soglia della speranza), khi được hỏi về đức hy vọng, Người trả lời rằng kẻ nào đã vượt lên sự sợ hãi, thắng nhờ tình yêu, nguồn mạch của tự do chân chính, người ấy có thể bước vào hy vọng. Vượt lên sự sợ hãi nô lệ để bước vào sự kính sợ hiếu thảo của agape, đó là động lực thúc đẩy toàn thể Giáo hội và nhân loại nếu muốn đi vào đức hy vọng. Kitô giáo có niềm hy vọng cho lịch sử, và cũng có một tiếng nói về ý nghĩa của lịch sử, vì thế Giáo hội mang trong mình một niềm trông cậy sẽ không thất vọng, bởi vì “tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ tràn trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Linh đã được ban cho chúng ta (Rm 5,5). Và tình yêu, - tình yêu lân tuất của Chúa Cha được biểu lộ nơi Đức Giêsu và được trao ban trong lịch sử qua Thánh Linh -, có khả năng đặt nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta. Niềm hy vọng này mang lại cho chúng ta khả năng chịu đựng đau khổ vì tình yêu trong một lịch sử đầy dẫy những sự dữ, thể lý cũng như luân lý, nhưng đồng thời, lịch sử ấy đã được cứu chuộc bởi Đấng chính là Chân lý và Tình yêu, đã muốn mặc lấy bản tính của chúng ta để chịu khổ vì chúng ta và với chúng ta[26].

[1] GS, 10.
[2] X. GS, 20.
[3] Karl Lowith, Significato e fine della storia. I presupposti teologici della filosofia della storia, Il Saggiatore, Milano, 2004, trang 21.
[4] Th. Augustinô, De civitate Dei, XII, 21.
[5] Ibid.
[6] Ibid., 17.
[7] Op. cit., tr. 191.
[8] X. Joseph Ratzinger, La théologie de l’histoire de Saint Bonaventure, Ed. Presses Universitaires de France, Paris, 1988, 120-125.
[9] Th. Augustinô, De civitate Dei, V, 17.
[10] Về quan niệm của thánh Augustinô về lịch sử, x. Karl Lowith, Significato e senso della storia. I presupposti teologici della filosofia della storia, Il Saggiatore, Milano, 2004, 185-189.
[11] J. Ratzinger, op. cit., 88. Liber de div. Quaest. 83, q. 48.
[12] J. Ratzinger op. cit., 134-136. Amador Pedro Barrajón Muñoz, La sabiduría cristiana en las Collationes in Hexaëmeron de S. Buenaventura, PPU, Barcelona, 1998, 271-281.
[13] K. Löwith, Significato e fine della storia, Il Saggiatore, Milano 1998, p. 179.
[14] H. Grundmann, Studien über Joachim von Floris, Teubner, Leipzig, 1927, p. 96. [ND] : “Duy lịch sử” (historicismus) ám chỉ một trào lưu triết học cho rằng thực chất của một vật được biểu lộ nơi lịch sử, chứ không phải nơi bản tính siêu hình. Trào lưu này gồm nhiều khuynh hướng, nổi tiếng nhất trong thế kỷ XIX là Hegel.
[15] G. B. Vico (a cura di F. Nicolini), Scienza nuova seconda, Laterza & Figli, Bari, 1942, 3ª ed., 153.
[16] G. B. Vico (a cura di F. Nicolini), Scienza nuova seconda, 129.
[17] K. Löwith, Significato e fine della storia, op. cit., 144.
[18] K. Barth, Die Kirliche Dogmatik III/1. Die Lehre von der Schöpfung, Zürich, EVZ, 1945, 261).
[19] Giovanni Paolo II, Udienza generale del 30, marzo del 1986, in Catechesi sul Credo, Libreria Editrice Vaticana, 1992, p.432.
[20] X. Ibid.
[21] Công đồng Vaticanô I, Denzinger-Schönmetzer, 3025.
[22] Ambrosiô, Exameron. Commento ai sei giorni della creazione, 75 (ed. Italiana, TEA, Milano, 1995, 278-279).
[23] Gioan Phaolô II, Thông điệp Dives in misericordia, số 8.
[24] Giovanni Paolo II - Vittorio Messori, Varcare la soglia della speranza, Mondadori, Milano 2004, cap. 9.
[25] Giovanni Paolo II - Vittorio Messori, Varcare la soglia della speranza, Mondadori, Milano 2004, cap. 9.
[26] X. ĐGH Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe salvi, 39.

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2020

THIÊN CHÚA NGƯƠI Ở ĐÂU ? Vài tiền đề cho suy tư thần học về lịch sử vào đầu thế kỷ XXI

Thời sự Thần học - số 72, tháng 5/2016, tr. 13-36

Juan Alberto Casas Ramírez [1]

I. Những tiền đề của sử học.
A. Các nhân tố của lịch sử.
B. Không có sự kiện, chỉ có giải thích.
C. Quan niệm cận đại về lịch sử chịu ảnh hưởng của Kitô giáo.
D. Nhiều trang sử được viết bởi kẻ thắng trận.
II. Những cái nhìn khác nhau về tương quan giữa Thiên Chúa và lịch sử
A. Mô hình tha lực
B. Mô hình tự lực
C. Mô hình thiên lực
III. Thiên Chúa hành động trong lịch sử như là lịch sử
Kết luận. “Thiên Chúa ngươi ở đâu?” Thiên Chúa nào?

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019

TUYÊN XƯNG CHÂN LÝ KITÔ GIÁO TRONG MỘT THẾ GIỚI ĐA NGUYÊN THEO QUAN ĐIỂM CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI

Thời sự Thần học – Số 45, tháng 9/2006, tr. 91-111

Phan Tấn Thành


Làm thế nào trình bày tư tưởng của đức đương kim giáo hoàng, đức Bênêđictô XVI,mới lên ngôi chưa được một năm rưỡi (19/4/2005), và mới phát hành một thông điệp “Deus caritas est”? May thay, trước khi được bầu lên chức vụ giám mục Rôma, ngài đã giữ chức vụ Tổng trưởng bộ Giáo lý đức tin suốt gần 25 năm (từ ngày 25/11/1981), một cơ quan – nếu so sánh với bộ máy chính quyền Việt Nam – tương đương với Bộ Chính trị hoặc Bộ Công an.

Thứ Năm, 14 tháng 2, 2019

NHỮNG SUY TƯ VỀ TƯƠNG LAI THẦN HỌC VỀ NGƯỜI GIÁO DÂN CỦA FABC


Thời sự Thần học - Số 58, tháng 11/2012, tr. 182-207

Trong số vừa rồi, Thời sự Thần học đã có một bài về “Thần học về đời sống thánh hiến 50 năm qua.” Lần này, trong khung cảnh kỷ niệm 50 năm khai mạc công đồng và 40 năm Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á châu, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của tiến sĩ Nguyễn Văn Hải về Thần học về người giáo dân của FABC. Nguyên văn "Reflections on the Future of the F ABC's Theology of the Laity" đăng East Asian Pastoral Review 49 (2012) 107-132.

Tham chiếu của bài viết khá dài. Trong quá trình chuyển ngữ, chúng tôi chỉ giữ lại một số tiêu biểu. Như thế, số thứ tự tham chiếu của bản gốc và bản dịch tiếng Việt sẽ không trùng nhau. Bản dịch của Tu sĩ Giuse Nguyễn Hoàng Vinh, O.P._________


Dàn bài

I. Thần học FABC về người giáo dân trong bối cảnh toàn cầu
II. Những hướng đi khả thi cho thần học FABC về người giáo dân
  - Bốn tiêu điểm thần học
  - Bốn dự án mục vụ
III. Hướng đến một thay đổi mẫu thức của thần học FABC về người giáo dân


Thứ Hai, 11 tháng 2, 2019

VÀI QUAN ĐIỂM THẦN HỌC NỔI BẬT CỦA SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

Thời sự Thần học - Số 58, tháng 11/2012, tr. 127-151

Nhân dịp kỷ niệm 10 năm ban hành Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo và 5 năm ban hành văn kiện Kim Chỉ Nam về Huấn giáo (Direttorio generale per la Catechesi), Bộ Giáo sĩ cùng với Bộ Giáo lý đức tin đã tổ chức một Hội nghị quốc tế về Huấn giáo (Congresso Catechistico Internazionale) tại Rôma vào các ngày 8-11/10/2002. Nhân dịp này, Hồng y Joseph Ratzinger, tổng trưởng bộ Giáo lý đức tin, đã đọc bài thuyết trình sau đây với tựa đề “sự thích thời đạo lý của Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo sau 10 năm xuất bản” (Attualità dottrinale del Catechismo della Chiesa Cattolica, dopo 10 anni dalla sua pubblicazione), trình bày vài quan điểm thần học nổi bật của Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo. Tuy rằng bản chất của Sách Giáo lý khác một công trình nghiên cứu thần học, nhưng tác giả cho thấy những đóng góp cho sự tiến triển thần học cách riêng về việc giải thích Kinh Thánh (phần thứ I), thần học về phụng vụ và bí tích, về Chúa Thánh Linh (phần thứ II), thần học luân lý (phần thứ III). Bài được đăng trên trang mạng của Bộ Giáo lý đức tin: www.doctrinafidei.va. Bản dịch của Tu sĩ Nguyễn Văn Phương, O.P. và Phạm Duy Khánh, O.P. 

Dàn bài:
  • Giá trị và những giới hạn của Sách Giáo lý
  • Việc sử dụng cứ liệu Kinh Thánh trong Sách Giáo lý
  • Chiều kích lịch sử
  • Kinh Thánh xét như quy điển
  • Bốn ý nghĩa của Kinh Thánh
  • Kinh Thánh, Thánh truyền và Giáo hội
  • Giáo lý về các Bí tích trong Sách Giáo lý
  • Giáo huấn Công đồng Vatican II về phụng vụ
  • Làm thế nào đạt được sự duy nhất trong sự đa dạng của các nghi điển
  • Thánh linh học
  • Hội nhập văn hoá: phụng tự, văn hoá
  • Giáo huấn luân lý Kitô giáo trong Sách Giáo lý
  • Đối thoại và giao ước
  • Kitô luận và luật tự nhiên

    Hồng y Joseph Ratzinger


    Với Tông hiến “Kho Tàng Đức Tin” (Fidei Depositum), Đức Gioan Phaolô II đã trao cho toàn thể Dân Chúa Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo. Một đàng quyển sách đáp ứng sự mong mỏi của mọi thành phần trong Giáo hội, nhưng mặt khác nó đã đụng phải thái độ hoài nghi thậm chí là khước từ nơi nhiều giới trí thức công giáo bên Tây phương. Sau bước ngoặt của Công đồng Vatican II, những công cụ huấn giáo vốn sử dụng thời trước trở thành khiếm khuyết, không theo kịp với cảm thức đức tin đã được Công đồng diễn tả. Từ đó nảy ra vô số những áp dụng thử nghiệm, cũng tương tự như trong lãnh vực Phụng vụ. Mặc dầu nhiều tác phẩm có giá trị, nhưng vẫn thiếu một cái nhìn tổng quát. Vấn đề đặt ra sau khúc ngoặt là những yếu tố nào vẫn còn giá trị. Vì thế các vị mục tử và tín hữu đang mong chờ một bản văn quy chiếu mới, định hướng cho việc huấn giáo, cung cấp một tổng hợp đạo lý công giáo phù hợp với hướng đi của Công đồng. Một nhóm các nhà thần học và các chuyên viên giáo lý chống lại đề nghị đó, do ước nguyện dễ hiểu là họ muốn được hưởng một khoảng tự do trong suy tư của mình. Sự chắc chắn của đức tin xem ra trái ngược với sự tự do và sự suy tư luôn luôn tiến triển. Tuy nhiên, đức tin đâu phải là chất liệu cho những thử nghiệm của lý trí; đúng ra đức tin phải là nền tảng vững chắc, hypostasis như đã viết trong thư Hípri (11,1), để dựa trên đó chúng ta có thể sống và chết. Cũng như khoa học không bị bế tắc vì đã đạt được những điều chắc chắn, và chính những điều chắc chắn đã đạt được là điều kiện cho sự phát triển của khoa học. Cũng thế, những sự chắc chắn mà đức tin mang lại sẽ đưa chúng ta vươn tới những chân trời mới, đang khi những suy tư thí nghiệm luẩn quẩn sẽ chóng đưa đến nhàm chán.

    Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2018

    CHỨNG TÁ VÀ TỬ ĐẠO : Từ Chứng Tá Đến Tử Đạo – Từ Tử Đạo Đến Chứng Tá

    Thời sự Thần học - Số 82, tháng 11/2018, tr. 48-78

    Phan Tấn Thành


    Dàn bài


    I. Từ chứng tá đến tử đạo
      A. Sự tiến triển ngữ học
        1. Trong tiếng Hipri (Cựu Ước).
        2. Trong tiếng Hy Lạp (Cựu Ước và Tân Ước).
        3. Các giáo phụ
      B. Thần học cổ điển về tử đạo
        1. Thánh Tôma Aquinô. 
        2. Đức Thánh Cha Bênêđictô XIV
      C. Những vấn nạn và phê bình quan niệm cổ điển về tử đạo
        1. Những vấn nạn thời xưa. 
        2. Những vấn nạn thời nay
    II. Từ tử đạo đến chứng tá
      A. Những hình thức tử đạo khác nhau trong truyền thống thần học
        1. Tử đạo thể lý và tử đạo tinh thần
        2. Đời tu trì kéo dài dòng máu tử đạo
      B. Tái khám phá ý nghĩa của chứng tá trong các văn kiện Huấn quyền
        1. Công đồng Vaticanô II: LG; AG; AA
        2. Sau Công đồng: Evangelica testificatio; Evangelii nuntiandi
      C. Thần học về chứng tá
        1. Thần học căn bản: chứng tá và lịch sử cứu độ
        2. Thần học truyền giáo: chứng tá và loan báo Tin Mừng
    Kết luận: Chứng tá và Tử đạo
        1. Khía cạnh thần học.
        2. Khía cạnh nhân học: ý nghĩa thực nghiệm; pháp lý; luân lý của chứng tá
    Phụ thêm
      I. Tử đạo trong Summa Theologiae
      II. Ơn gọi tu trì và ơn gọi tử đạo theo thánh Tôma

    Thứ Tư, 21 tháng 11, 2018

    NĂM ĐỨC TIN CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI

    Thời sự Thần học - Số 58, tháng 11/2012, tr. 101-126

    Tsth


    Trong tự sắc Porta Fidei (số 4) công bố Năm Đức tin, đức thánh cha Bênêđictô XVI nhắc lại rằng trước đây Năm Đức tin cũng đã được cử hành dưới thời đức thánh cha Phaolô VI. Trong bài này, chúng tôi muốn nhắc lại vắn tắt biến cố ấy và đặc biệt giới thiệu bản tuyên xưng “kinh Tin kính của Dân Thiên Chúa” được đọc vào ngày bế mạc.

    I. Ý nghĩa của Năm đức tin


    Do tông huấn Petrum et Paulum Apostolos (ngày 22/2/1967), đức thánh cha Phaolô VI tuyên bố một Năm Đức tin, từ ngày 29/6/1967 đến ngày 29/6/1968, để kỷ niệm 1900 năm cuộc tuẫn đạo của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Trong văn kiện vừa kể, đức Thánh Cha nêu lý do của biến cố này. Ngoài việc tưởng nhớ hai thánh Tông đồ, cũng giống như đức Thánh Cha Piô IX đã làm một thế kỷ trước đó, Hội thánh thời nay cần tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu đứng trước những nguy hiểm của thời đại: bên ngoài là não trạng vô thần của xã hội, quá tự tin vào khoa học và lãng quên Thiên Chúa; nhưng nhất là ngay trong lòng Hội thánh cũng có những tư tưởng đòi xét lại niềm tin cổ truyền. Đối với đức Phaolô VI, những kẻ “nội thù” còn nguy hại hơn là những kẻ thù bên ngoài.

    Để hiểu vấn đề, cần đi ngược lại dòng thời gian. Công đồng Vaticanô II bế mạc ngày 8/12/1965, mang lại nhiều “vui mừng và hy vọng” nơi nhiều người. Nhưng sau một thời gian ngắn, một bầu khí căng thẳng đè nặng lên Giáo hội. Phái “cấp tiến” muốn thừa thắng xông lên, đẩy mạnh công cuộc canh tân của Công đồng trong mọi lãnh vực: đức tin, phụng vụ, kỷ luật. Phái “bảo thủ” đâm ra lo lắng cho những đề nghị quá đà ấy, và lo sợ cho sự tồn tại của Hội thánh, không hiểu còn duy trì sự liên tục với truyền thống các thánh tông đồ hay không, và quay ra bài xích Công đồng.

    Trong Năm Đức tin, Đức Thánh Cha đã dành nhiều bài huấn dụ để giải thích ý nghĩa của đức tin trong nhiều bài huấn dụ nhân ngày tiếp kiến chung ngày thứ tư hằng tuần:

    Năm đức tin cần phải được năng động với nhiều công phúc (1/3/1967). Mỗi trang của công đồng đều nói đến đức tin (8/3/1967). Đức tin là ngọn đèn trên cuộc lữ hành dương gian (15/3/1967). Những cuộc gặp gỡ của Chúa Phục sinh với các thánh tông đồ (29/3/1967). Đức tin là điều làm chúng ta chiến thắng thế gian (5/4/1967). Vượt lên những sự yếu đuối của thời đại chúng ta (12/4/1967). Thực tại rực rỡ của kinh Tin kính (19/4/1967). Cả Đức Trinh Nữ Maria cũng tiến bước trên cuộc lữ hành đức tin (10/5/1967). Giảng dạy tốt và ngoan ngoãn lắng nghe Tin Mừng (31/5/1967). Luôn luôn tỉnh thức để duy trì đạo lý được nguyên tuyền (14/6/1967). Tìm kiếm chân lý và kiên trì trong việc cầu nguyện (21/6/1967). Cử hành long trọng cuộc tuẫn đạo của hai thánh Phêrô và Phaolô (29/6/1967: Thánh lễ khai mạc Năm đức tin). Gia sản tuyệt vời của các thánh tông đồ (5/7/1967). Với đức tin, cuộc đời không đen tối (27/9/1967). Mầu nhiệm Hội thánh, phẩm giá và sứ mạng của người Kitô hữu (10/1/1968). Lắng nghe và đi theo Chúa Kitô giữa những tình huống ngang trái của thế giới (31/1/1968). Ý nghĩa và giá trị của việc thuộc về Hội thánh (13/3/1968). Chứng tá của thánh Phêrô trải qua các thế kỷ (3/4/1968). Vui mừng và hy vọng vì sự thức tỉnh lương tâm Kitô giáo (25/4/1968). Hoạt động tông đồ của các tín hữu (15/5/1968). Sự dấn thân của mỗi người tín hữu (22/5/1968). Những nhân đức gương mẫu và sự bầu cử của Mẹ Maria (29/5/1968). Đức tin mang lại ánh sáng và nâng đỡ (5/6/1968). Nhìn nhận và chúc tụng Thiên Chúa cao cả và khoan nhân (12/6/1968). Một đức tin sống động (19/6/1968). Thánh Phêrô và thánh Phaolô, nền tảng của Giáo hội Rôma (26/6/1968). Tuyên xưng đức tin (Thánh lễ bế mạc Năm đức tin: 30/6/1968). Chú giải kinh Tin kính (3/7/1968). Tuyên xưng và hành động (10/7/1968). Đức tin và đời sống luân lý (17/7/1968). Ý nghĩa Kinh Tin kính của Dân Thiên Chúa (30/10/1968).

    Đức Thánh Cha đã dành không ít bài để diễn giảng kinh Tin kính, đặc biệt là kinh Tin kính mà ngài đã soạn.

    II. Kinh Tin kính của Dân Thiên Chúa


    Một đặc trưng của Năm Đức Tin là vào ngày bế mạc Năm Đức Tin (30/6/1968)[1], Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đọc một bản tuyên xưng đức tin, được đặt tên là “Kinh Tin kính của Dân Thiên Chúa”. Sau khi nhắc qua nguồn gốc lịch sử của bản kinh này, chúng ta sẽ tìm hiểu nội dung của nó.

    A. Lịch sử


    Vào giai đoạn cuối của Công đồng Vaticanô II, cha Yves Congar đã đề nghị một bản tuyên xưng đức tin, giống như các công đồng trước đây, nhưng thay vì những lời kết án các lạc thuyết, cha đề nghị một công thức dựa trên tư tưởng của Kinh Thánh hơn. Xem ra đề nghị ấy không được quan tâm cho lắm.

    Sau khi Năm Đức tin đã bắt đầu, Thượng Hội Đồng Giám mục được triệu tập tại Rôma từ ngày 29/9 đến 29/10, để bàn về việc duy trì và củng cố đức tin công giáo. Các nghị phụ đã nghiên cứu sự bành trướng của chủ nghĩa vô thần, cuộc khủng hoảng đức tin, những tư tưởng thần học lệch lạc. Thượng Hội Đồng đã đề nghị đức Phaolô VI một bản tuyên ngôn đức tin, để soi sáng cho các tín hữu biết những gì thuộc về đức tin công giáo, và những gì chỉ là ý kiến của các nhà thần học. Mặt khác, từ tháng 10 năm 1966, dư luận rất xôn xao sau khi cuốn sách Giáo lý Hà Lan được xuất bản, trong đó đặt lại nhiều vấn đề thuộc đức tin, chẳng hạn như về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể, sự trinh khiết của Đức Maria, tội nguyên tổ. Tòa thánh đã thiết lập một Ủy ban Hồng y để duyệt lại cuốn sách này.

    Ngày 14/12, Hồng y Charles Journet, một thành viên của Ủy ban, được Đức Thánh Cha tiếp kiến, và ngài đã gợi ý soạn một kinh Tin kính. Đức Thánh Cha đồng ý và nhờ chính hồng y soạn thảo bản văn. Thực ra ý tưởng này do ông Jacques Maritain đã gợi lên cho đức Hồng y, và sau khi được sự ủy thác của đức Phaolô VI, ngài lại nhờ ông viết bản văn. Bản thảo đã hoàn tất vào tháng Giêng năm 1968 và được chuyển sang Rôma. Sau nhiều cuộc trao đổi giữa ông Maritain và Hồng y Journet với bộ Giáo lý Đức tin, bản văn cuối cùng đã hoàn tất vào tháng 4.[2]

    Về giá trị đạo lý của bản tuyên xưng này, chính Đức Thánh Cha đã xác nhận rằng đây không phải là một việc công bố tín điều theo nghĩa chặt; tuy vậy nó mang ý nghĩa đặc biệt bởi vì là lời tuyên xưng long trọng các chân lý cổ kính từ công đồng Nixea và thêm vào những giải thích do điều kiện thời nay đòi hỏi[3].

    B. Cấu trúc


    Các tín biểu cổ điển được chia thành ba phần, tương ứng với công trình của Ba Ngôi Thiên Chúa. Công đồng Trentô lấy lại tín biểu của công đồng Constantinopolis, và thêm những đạo lý mới vào phần cuối. Kinh Tin kính Dân Chúa tuy lấy những tư tưởng chính của tín biểu Constantinopolis nhưng xếp đặt theo một cấu trúc khác, và thậm chí xen thêm những lời giải thích vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Đức Kitô. Bản Tuyên xưng đức tin gồm 30 số, gồm 7 số dẫn nhập giải thích lý do của việc tuyên xưng[4] và 23 số còn lại là bản kinh. Thiết tưởng có ít là hai cách thức để phân chia nội dung: 1/dựa theo những lời mở đầu “chúng tôi tin”; 2/ dựa theo những chủ đề chính.

    1. Dựa theo những lời mở đầu, chúng ta có thể kể ra ít là hai mươi câu khẳng định (tín điều).

    Công thức “Chúng tôi tin” không chỉ mang tính cách trang trọng, nhưng còn phản ánh lối văn của các bản tuyên xưng đức tin cổ truyền của các công đồng (kể cả bản kinh của công đồng Constantinopolis): các giám mục tuyên xưng đức tin nhân danh toàn thể Hội thánh.
    1. Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. 
    2. Chúng tôi tin Thiên Chúa duy nhất... là Đấng Hiện Hữu và Tình yêu. 
    3. Chúng tôi tin Đức Chúa Cha đã sinh Đức Chúa Con từ trước vô cùng. 
    4. Chúng tôi tin Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa. 
    5. Chúng tôi tin Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. 
    6. Chúng tôi tin Đức Maria là Mẹ, trọn đời đồng trinh, của Ngôi Lời Nhập thể. 
    7. Chúng tôi tin mọi người đã phạm tội nơi ông Ađam. 
    8. Chúng tôi tin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng tôi, đã chuộc chúng tôi khỏi tội tổ tông và khỏi mọi tội riêng mình phạm. 
    9. Chúng tôi tin Chúa Giêsu Kitô đã lập phép rửa để tha tội. 
    10. Chúng tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, được Chúa Kitô đã xây trên tảng đá Phêrô. 
    11. Chúng tôi tin tất cả những gì chứa đựng trong Lời Chúa đã được ghi chép và truyền lại. 
    12. Chúng tôi tin Đấng kế vị thánh Phêrô được ơn bất khả ngộ. 
    13. Chúng tôi tin Hội thánh duy nhất trong đức tin và phụng tự và trong sự hiệp thông phẩm trật. 
    14. Chúng tôi tin rằng Hội thánh là cần thiết cho phần rỗi. 
    15. Chúng tôi tin Thánh lễ là lễ hy sinh núi Sọ hiện diện cách bí tích trên bàn thờ. 
    16. Chúng tôi tin bánh và rượu do tư tế thánh hiến trở nên Mình và Máu Thánh của Chúa Kitô hiển vinh. 
    17. Chúng tôi tuyên xưng rằng Nước Thiên Chúa được khơi mào ở thế gian này trong Hội thánh Chúa Kitô, nhưng không thuộc về thế gian. 
    18. Chúng tôi tin cuộc sống muôn đời. 
    19. Chúng tôi tin rằng toàn thể những linh hồn được tụ họp chung quanh Chúa Giêsu và Đức Maria trên Thiên đàng họp thành Hội thánh trên trời. 
    20. Chúng tôi tin rằng mọi tín hữu hiệp thông trong Chúa Kitô. 

    2. Dựa theo những chủ đề chính, ta có thể chia thành 8 mục, sau phần nhập đề: Mầu nhiệm Thiên Chúa nhất thể tam vị, Mầu nhiệm Đức Kitô, Thánh Linh, Thánh mẫu, Tội nguyên tổ, Hội thánh, Thánh Thể, Cánh chung. Chúng ta hãy nhìn qua nội dung của mỗi mục

    Nhập đề (số 1-7).


    Lý do của việc tuyên xưng. Giá trị đạo lý của bản tuyên xưng.

    1. Thiên Chúa Nhất vị Tam thể (số 8-10)


    Số 8: Tuyên xưng một Thiên Chúa trong ba ngôi. (Tín biểu Constantinopolis: Thiên Chúa là Cha, Đức Kitô là Chủ tể, đồng bản thể với Cha). Đấng Tạo dựng (vì là một hoạt động bên ngoài cho nên được quy cho cả Ba Ngôi) muôn vật: hữu hình và vô hình (kể cả các thiên sứ: công đồng Lateranô IV) và mỗi linh hồn con người, thiêng liêng và bất tử (công đồng Laterano V).

    Số 9: Thiên Chúa duy nhất theo bản tính nhưng bao gồm tất cả mọi thiện hảo: Ngài là Hiện hữu, Tình yêu, khôn tả và khôn thấu.

    Số 10: Sự nhiệm xuất: Con được sinh ra; Thánh Linh phát xuất từ Cha và Con.

    2. Đức Kitô (số 11-12)


    Số 11: Sự Nhập thể
    • Thiên tính của Đức Kitô: Chủ tể, Con Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa, cùng một bản thể với Cha. 
    • Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành (công đồng Nixêa) 
    • Ngôi Lời đã làm người (công đồng Nixêa) nghĩa là với một linh hồn và thân xác con người. 
    • Do quyền năng của Thánh Linh...: Đức Maria là trinh nữ và là mẹ (chống lại thuyết ảo thân, ngộ giáo). 
    • Đức Kitô có hai bản tính (công đồng Ephesô, Calxêđonia, tín biểu Athanasiô). 

    Số 12: Mầu nhiệm Cứu chuộc
    • Đức Kitô cư ngụ giữa chúng ta, mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta, loan báo và thiết lập Nước Thiên Chúa. Người mạc khải Thiên Chúa là Cha, mạc khải điều răn mới của các chân phúc. 
    • Mầu nhiệm Vượt qua: Tử nạn (chịu chết trên thập giá, cứu chuộc trong máu của Người). Phục sinh; Lên trời. 
    • Quang lâm và Chung thẩm. 

    3. Thánh Linh (số 13)


    Tín biểu Constantinopolis: Thánh Linh là Chúa, Đấng ban sự sống, được phụng thờ và tôn vinh với Cha và Con, Người đã phán dạy qua các ngôn sứ.

    Tác động của Thánh Linh trong Hội thánh: Người được phái đến Hội thánh để soi sáng, thánh hóa, bảo vệ Hội thánh (Hội thánh bất khả hủy).

    4. Thánh mẫu (số 14-15)


    Số 14: Đức Maria là Thiên mẫu (Công đồng Ephesô); trọn đời trinh khiết; vô nhiễm nguyên tội.

    Số 15: Đức Maria hồn xác lên trời. Vai trò chuyển cầu. Mẹ của Hội thánh (Lumen Gentium).

    5. Tội nguyên tổ (số 16-18)


    Số 16: Khẳng định tội nguyên tổ. (Tình trạng thánh thiện và công chính vào buổi đầu; tội của ông Ađam và được truyền lại, chứ không phải do bắt chước: Công đồng Trentô).

    Số 17: Công trình cứu chuộc của Đức Kitô.

    Số 18: Sự cần thiết của bí tích rửa tội, kể cả cho các nhi đồng (Công đồng Trentô).

    6. Hội thánh (số 19-23)


    Số 19: Những yếu tố cấu thành Hội thánh: một (duy nhất, hợp nhất), thánh thiện, công giáo, tông truyền, hữu hình và vô hình (Lumen Gentium).

    Số 20: Đặc ân bất khả ngộ khi truyền thông gia sản đức tin (LG, 25).

    Số 21: Duy nhất và đa dạng trong Hội thánh: duy nhất trong đức tin, phụng tự, dây hiệp thông; đa dạng trong nghi điển phụng vụ; khác biệt trong gia sản thần học và tâm linh (Lumen Gentium).

    Số 22: Niềm tin và hy vọng vào sự hợp nhất Hội thánh.

    Số 23: Hội thánh cần thiết cho sự cứu độ.

    7. Thánh Thể (số 24-26)


    Số 24: Thánh lễ thực sự là hy lễ (Công đồng Trentô).

    Số 25: Chúa Kitô thực sự hiện diện trong bí tích, nhờ sự biến đổi gọi là “transsubstantiatio”.

    Số 26: Chúa Kitô hiện diện thường xuyên trong bí tích. Việc tôn thờ Thánh Thể.

    8. Cánh chung (số 27-30)


    Số 27: Hội thánh trong thế giới: Nước Thiên Chúa và các giá trị trần thế

    Số 28: Đời sống vĩnh hằng. Luyện tội. Cánh chung trung thời. Sự phục sinh.

    Số 29: Thiên đàng. Hội thánh thiên quốc.

    Số 30: Sự hiệp thông các thánh.

    C. Bản văn


    Nguyên bản tiếng Latinh được đăng trong AAS 60 (1968) 434-445. Bản dịch Việt ngữ được đăng trên Linh mục Nguyệt san Sacerdos số 81, tháng 8 năm 1968, trang 498-507, với vài sửa đổi (cách riêng phân đoạn, đặt tựa đề).

    KINH TIN KÍNH CỦA DÂN THIÊN CHÚA

    Anh em đáng kính và các con yêu dấu,

    1. Với lễ nghi trang trọng này chúng tôi bế mạc năm kỷ niệm 19 thế kỷ cái chết anh hùng của hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, và như thế chúng tôi cũng muốn bế mạc, “Năm Đức Tin” để kính nhớ liệt vị Tông đồ, để chứng tỏ ý chí trung thành không thể nao núng vào kho tàng đức tin (x. 1Tm 6,20) mà các ngài truyền lại cho chúng ta, đồng thời để củng cố ý muốn sống đức tin đó trong giai đoạn lịch sử Giáo hội đang trải qua đường lữ thứ trần gian.

    Những lời cám ơn


    2. Chúng tôi cảm thấy có nhiệm vụ phải cám ơn cách công khai tất cả những người đã hưởng ứng lời kêu gọi của chúng tôi, đã đem lại cho “Năm Đức Tin” sự sung mãn lạ lùng của nó bằng cách đào sâu niềm tin tưởng của chính bản thân vào Lời Thiên Chúa, bằng cách tổ chức những cuộc đoàn thể tuyên xưng đức tin và thực hiện nhân chứng về đời sống Kitô hữu. Với anh em trong hàng Giám mục, và với đoàn thể tín hữu trong Hội thánh Công Giáo, chúng tôi muốn ngỏ lời cám ơn cách riêng và ban phép lành Toà Thánh đặc biệt.

    Nhiệm vụ củng cố đức tin cho anh em


    3. Đồng thời, chúng tôi nhận thấy nhiệm vụ phải thi hành sứ mệnh mà Chúa Kitô đã trao phó cho thánh Phê-rô mà chúng tôi là người kế nghiệp - người rốt nhất xét về công trạng - đó là sứ mệnh củng cố đức tin nơi các anh em (x. Lc 22,32). Dĩ nhiên chúng tôi ý thực sự yếu hèn của chúng tôi, nhưng với tất cả sức mạnh do một sứ mệnh thông đạt cho chúng tôi, giờ đây chúng tôi, xin tuyên xưng đức tin của chúng tôi, chúng tôi tuyên đọc một kinh Tin Kính, tuy không là tuyên bố một tín điều, nhưng là lặp lại và quảng diễn Kinh Tin Kính của Công đồng Ni-xê của Thánh truyền bất tử trong Hội thánh Thiên Chúa, phù hợp với hoàn cảnh ngày nay.

    Người thời đại trước vấn đề đức tin


    4. Làm như thế là vì chúng tôi nhận thấy nỗi niềm ưu tư hiện đang dằn vặt tâm can con người thời đại trước vấn đề đức tin. Họ không thể thoát ly ảnh hưởng của một thế giới đang bị lung lay tận gốc, trong đó có nhiều xác tín cũng bị đem ra mổ xẻ và tranh luận. Chúng tôi thấy cả những người Công giáo cũng đang say mê mới lạ và đổi thay. Đã hẳn Giáo hội luôn luôn có bổn phận cố gắng nghiên cứu và trình bày, một cách thích hợp với tâm trạng người thời nay, những mầu nhiệm khôn lường của Thiên Chúa, mang nặng những hiệu quả cứu độ cho mọi người. Tuy nhiên, phải hết sức thận trọng, trong khi nghiên cứu tìm hiểu, không được vi phạm đến Giáo lý tinh truyền của đạo, vì như thế, chỉ sinh hỗn độn và gây hoang mang cho bao người tín hữu, như kinh nghiệm đã cho biết.

    Trách vụ người chú giải


    5. Muốn thế, cần phải nhớ rằng bên kia cái có thể quan sát và kiểm chứng một cách khoa học được, trí khôn mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có thể hiểu cái thực hữu, chứ không chỉ là sự bộc lộ chủ quan của những cơ cấu và của sự tiến hoá lương tâm; mặt khác trách vụ của người chú giải là vừa tôn trọng vừa tìm hiểu và làm sáng tỏ ý nghĩa thật của nguyên văn, chứ không võ đoán đưa ra một nghĩa giả định.

    Niềm tin tưởng sắt đá


    6. Nhưng, trước hết và trên hết, chúng tôi đặt niềm tin tưởng sắt đá của chúng tôi nơi Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội, và nơi chính Đức Tin là nền tảng của đời sống của Nhiệm thể (Chúa Kitô). Chúng tôi biết các tâm hồn đang mong chờ vị đại diện của Chúa Kitô lên tiếng, và trong nhiều dịp chúng tôi đã đáp ứng lòng mong đợi đó. Thế nhưng hôm nay là cơ hội đặc biệt để nói lên một lời trang trọng hơn.

    Nhân danh toàn thể Dân Chúa


    7. Trong ngày được chọn để bế mạc Năm Đức Tin, ngày lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng tôi muốn dâng lên Thiên Chúa hằng sống lễ vật tuyên xưng đức tin của chúng tôi. Và cũng như xưa, tại Cêsarê Philipphê, Tông đồ Phêrô đại diện cho mười hai Tông đồ đã vượt trên dư luận người đời, tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống, thì nay, người kế vị hèn mọn của Người, chủ chiên của Hội thánh hoàn vũ, xin được phép lên tiếng nhân danh toàn thể Dân Chúa, để làm chứng về chân lý thiên linh đã được uỷ thác cho Hội thánh để truyền bá cho mọi dân tộc.

    Chúng tôi muốn cho việc tuyên xưng đức tin của chúng tôi được khá đầy đủ và rõ ràng, để đáp ứng đặc biệt với nhu cầu của bao tâm hồn tín hữu cũng như của bao người đang sống trên mặt đất, thuộc bất cứ Cộng đồng tôn giáo nào, đang đi tìm ánh sáng Sự Thật.

    Để làm vinh danh Thiên Chúa cực thánh và Đức Kitô Chúa chúng ta, cậy trông vào sự phù giúp của Đức Trinh Nữ Maria và các Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, để mưu ích cho Giáo hội, nhân danh toàn thể các chủ chăn và tín hữu, giờ đây chúng tôi đọc lời tuyên xưng Đức tin, trong niềm hiệp thông tinh thần với tất cả các anh em và con cái yêu dấu.

    TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN


    I. Thiên Chúa nhất thể tam vị


    8. Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất, là Cha, Con và Thánh Thần, Đấng tạo thành muôn vật, hữu hình như thế giới này, nơi đây chúng ta đang sống đời tạm bợ, và vô hình như các thuần thần cũng gọi là thiên thần (x. Dz.-Sch. 3002) và là Đấng tạo thành linh hồn thiêng liêng và bất tử ở nơi mỗi người.

    9. Chúng tôi tin rằng Thiên Chúa duy nhất là một trong bản thể vô cùng thánh thiện, gồm hết mọi thiện hảo, toàn năng, hiểu biết vô tận, quan phòng, có ý muốn và tình thương. Thiên Chúa là Đấng hiện hữu, như Ngài đã mặc khải với Mai-sen (x. Xh 3,14); và Thiên Chúa là Tình Yêu, như thánh tông đồ Gioan dạy (x. 1Ga 4,8): Hiện Hữu và Tình Yêu hai danh hiệu để chỉ một bản tính khôn tả của Thiên Chúa, Đấng đã khấng tỏ mình ra cho chúng ta, Đấng “ngự trên ánh sáng siêu phàm” (x. 1Tm 6,16), Đấng ở trên mọi danh hiệu, ở trên vạn vật và trên mọi lý trí thụ tạo. Duy chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta biết đúng và biết đầy đủ về đời sống Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần, cuộc sống mà chúng ta được mời gọi đến chia sẻ, ngay từ đời này trong bóng tối đức tin và đời sau trong ánh sáng vĩnh cửu.

    Những dây liên lạc hỗ tương đã cấu tạo nên Ba Ngôi tự nguyên thuỷ, cũng làm cho Ba ngôi chung một bản tính Thiên Chúa, nói lên đời sống hạnh phúc thân mật của Thiên Chúa chí thánh, vượt trên mọi hiểu biết và suy lường của trí khôn loài người (x. Dz-Sch. 804). Vì thế chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa nhân lành, bởi vì có nhiều tín đồ trên thế giới cùng làm chứng cho Thiên Chúa duy nhất trước mặt loài người mặc dù họ không biết đến mầu nhiệm Tam vị chí thánh.

    10. Còn chúng tôi, chúng tôi tin kính Đức Chúa Cha, Đấng đã sinh ra Đức Chúa Con từ trước muôn đời; chúng tôi tin kính Đức Chúa Con là Ngôi Lời Thiên Chúa tự đời đời đã được sinh ra; chúng tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là ngôi vị không được tạo thành, xuất phát bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Như vậy, nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, đồng vĩnh cửu, đồng bình đẳng (x. Dz-SCh. 75), chan hoà một cách viên mãn đời sống vinh quang và hạnh phúc bất diệt của Thiên Chúa, vì thế luôn luôn “phải được tôn kính là một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi, và Thiên Chúa Ba Ngôi trong một bản thể duy nhất” (Dz.-Sch. 75).

    II. Đức Kitô


    11. Chúng tôi tin kính Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng tôi, là Con Thiên Chúa. Người là Ngôi Lời, được sinh ra bởi Đức Chúa Cha tự trước muôn đời, đồng bản tính với Đức Chúa Cha (Dz.-Sch. 150), nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria do quyền năng Đức Chúa Thánh Thần, và đã làm người: Người bằng Đức Chúa Cha về bản tính Thiên Chúa, Người ở dưới Đức Chúa Cha về bản tính loài người, (x. Dz.-Sch. 76): hai bản tính không trà trộn (một điều không thể nào có được) nhưng hợp trong một ngôi vị duy nhất.

    12. Người “đến cư ngụ giữa chúng ta..., tràn đầy ơn thánh và chân lý” (Ga 1,14). Người đã loan báo và thiết lập Nước Thiên Chúa, Người mạc khải Chúa Cha cho chúng ta nơi chính bản thân mình. Người đã truyền cho chúng ta một điều răn mới là yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta (x. Ga 15,12). Người dạy chúng ta con đường đi đến Phúc thật của Tin Mừng đó là: tinh thần khó nghèo, hiền từ, kiên nhẫn trong đau khổ, khao khát công lý, hay thương xót, tâm hồn trong sạch, ý muốn hoà bình, cam chịu bách hại vì công lý (x. Mt 5,1-10).

    Người đã thụ hình dưới thời quan Phongxiô Philatô, như Chiên Thiên Chúa gánh các tội lỗi trần gian (x. Ga 1,29): Người đã chết trên thập giá vì chúng ta, đã mang lại cho chúng ta ơn cứu độ bằng máu chuộc tội (x. Dt 9,23). Người chịu mai táng trong mồ, đã chỗi dậy ngày thứ ba bởi quyền năng của mình, do sự phục sinh Người nâng cao chúng ta lên để thông dự vào đời sống thần linh, tức là ơn thánh. Người lên trời, từ đó Người sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, mỗi người tùy theo công trạng của mình: những ai sống cho tình yêu và thảo hiếu với Thiên Chúa sẽ được hưởng phúc đời đời, những ai khước từ Thiên Chúa sẽ bị luận phạt muôn kiếp. Và Nước Người không bao giờ cùng.

    III. Đức Chúa Thánh Thần


    13. Chúng tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người cùng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy, Người được cử đến với chúng ta do Chúa Kitô sống lại và lên trời: Người soi sáng, linh hoạt, che chở và điều khiển Hội thánh, Người thánh hoá các linh hồn miễn là họ không từ chối ơn của Người. Người hành động trong thâm sâu của linh hồn, khiến cho họ có thể đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu “chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).

    IV. Thánh Mẫu Maria


    14. Chúng tôi tin Đức Maria là Mẹ trọn đời đồng trinh của Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa và là Đấng cứu chuộc chúng tôi, Chúa Giêsu Kitô (x. Dz.-Sch. 251-252). Do một đặc ân, Đức Maria đã được cứu chuộc một cách khác thường (x. LG 53), vì nhìn thấy công nghiệp của Con mình mà Mẹ được giữ khỏi mọi vấn vương tội truyền (x. Dz.-Sch. 2803), và nhờ ân sủng đặc biệt Mẹ đã vượt lên trên tất cả mọi loài thụ tạo (x. LG 53).

    15. Liên kết chặt chẽ bằng sợi dây chặt chẽ và bất khả ly với mầu nhiệm nhập thể và cứu thế (x. LG 53, 58, 61), đức thánh Trinh Nữ Maria vô nhiễm nguyên tội, sau cuộc đời dương thế đã được đem cả linh hồn và cả xác lên hưởng vinh quang trên trời (x. Dz.-Sch. 3903), và giống như Con chí thánh của mình đã sống lại từ cõi chết và đạt tới trước số phận dành cho tất cả những người công chính. Chúng tôi tin đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Eva mới, Mẹ Giáo hội (x. LG 53, 56, 61, 63; x. AAS LVI,1964, 1016), ở trên trời vẫn tiếp tục làm Mẹ các chi thể của Chúa Kitô, cộng tác với việc sinh dưỡng và phát triển đời sống Thiên Chúa trong hết những người đã được cứu chuộc (x. LG 62).

    V. Tội nguyên tổ


    16. Chúng tôi tin mọi người đã phạm tội nơi ông Ađam, nghĩa là tội do Adong phạm nhưng truyền hậu quả lại cho mọi người, vì mọi người có cùng bản tính như ông. Tình trạng này không còn như trước khi bản tính con người đã sa đoạ, được dựng nên trong sự thánh thiện và công chính, và con người được thoát khỏi tội và cái chết. Vì thế bản tính sa đọa đã được truyền lại cho tất cả mọi người, thiếu mất ơn thánh mà trước đây nó đã được trang điểm, năng lực tự nhiên bị thương tổn, và bị cái chết thống trị. Đó là ý nghĩa câu nói: mọi người đều sinh ra trong tội. Với Công đồng Triđentinô, chúng tôi xác nhận rằng tội nguyên tổ đã truyền lại cùng với bản tính loài người, “không vì bắt chước mà vì truyền sinh” và chính vì thế nó gắn với mỗi người” (Dz.-Sch. 1513).

    17. Chúng tôi tin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, bằng hy sinh thập giá đã cứu chuộc chúng ta khỏi tội tổ tông và khỏi mọi tội riêng mình phạm, đến nỗi theo lời thánh Phaolô, “ở đâu tội chất đống lên, ở đấy có ơn thánh tràn ngập” (Rm 5,20).

    18. Chúng tôi tuyên xưng lòng tin vào một phép rửa duy nhất, do Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng ta, đã thiết lập để tha tội. Vậy, phải rửa tội cho cả trẻ em mới sinh, chưa thể phạm tội cá nhân, ngõ hầu khi sinh ra đã thiếu ân sủng siêu nhiên, các em được sinh lại “bởi nước và bởi Chúa Thánh Thần”, nghĩa là sinh vào đời sống thần linh trong Chúa Giêsu Kitô (x. Dz.-Sch. 1514).

    VI. Hội thánh


    19. Chúng tôi tin kính Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, do Chúa Kitô đã xây dựng trên tảng đá Phêrô. Hội thánh là Nhiệm Thể Chúa Kitô, vừa là xã hội hữu hình với các cơ quan phẩm trật, vừa là một cộng đoàn thiêng liêng; đó là Hội thánh dưới trần gian, Dân Chúa trên đường lữ hành, mang theo các ân trạch trên trời và Hội thánh được đầy tràn ân phúc trên trời. Hội thánh là hạt giống và hoa trái đầu mùa của Nước Trời, nhờ Hội thánh mà sự nghiệp và cuộc thụ nạn của Đấng cứu chuộc sẽ được tiếp tục trải qua các thế hệ, và sẽ chỉ hoàn tất cách hoàn hảo trong vinh quang thiên đàng (x. LG 8, 5).

    Các bí tích

    Theo dòng thời gian, Chúa Giêsu thành lập Hội thánh của Người nhờ các bí tích trào ra từ sự viên mãn của mình (x. LG 7, 11). Thật vậy, nhờ các bí tích, Hội thánh làm cho mọi người được tham dự vào mầu nhiệm cái chết và sống lại của Chúa Kitô, được lãnh ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống và sức hoạt động (LG 7, 12, 50). Hội thánh quả là thánh thiện, mặc dầu bao gồm trong lòng mình nhiều người tội lỗi, bởi vì Hội thánh không có sự sống nào khác là sự sống ơn thánh; nếu các phần tử nuôi dưỡng nhờ ơn thánh thì chắc chắn là họ được nên thánh; nếu họ tách ra khỏi sự sống đó thì sẽ mắc tội và những vết nhơ trong linh hồn, làm cho sự thánh thiện của Hội thánh không được phát triển. Bởi vậy Hội thánh buồn sầu và đền tội vì các lầm lỗi đó, tuy nhiên Giáo hội có thẩm quyền giải thoát con cái mình khỏi các lầm lỗi nhờ Máu Chúa Kitô và ân ban Chúa Thánh Linh.

    Nhiệm Vụ truyền bá chân lý

    20. Thừa hưởng các lời Thiên Chúa hứa, là con của Abraham theo Thánh Thần, là Israel mới, đầy lòng cung kính các vị tổ phụ và tiên tri, được thiết lập trên nền tảng Tông đồ (x. Ep 2,20) để truyền bá lời hằng sống từ đời nọ sang đời kia, được uỷ thác quyền chăn chiên nơi vị kế nghiệp Thánh Phêrô và nơi các giám mục thông hảo cùng Toà Thánh, được Chúa Thánh Thần luôn luôn trợ lực, Hội thánh có nhiệm vụ trông coi, giảng dạy, cắt nghĩa và truyền bá Chân Lý mà Thiên Chúa mạc khải xưa kia cách ẩn hiện nơi các tiên tri và một cách sung mãn nơi Chúa Kitô. Vì thế chúng tôi tin “tất cả Lời Chúa đã được ghi chép và truyền lại, mà Giáo hội dạy phải tin như điều mạc khải, hoặc công bố trong thể như một tín điều hoặc qua huấn quyền thông thường phổ quát” (x. Dz.-Sch. 3011). Chúng tôi tin rằng đấng kế vị thánh Phêrô được ơn bất khả ngộ khi ngài tuyên bố ex cathedra với tư cách là chủ chiên và thầy dạy của toàn thể các tín hữu (x. Dz.-Sch. 3074); (chúng tôi tin rằng) cả giám mục đoàn cũng hưởng ơn đó, khi đồng thi hành quyền giáo huấn tối thượng với Đức Giáo Hoàng (x. LG 25).

    Hội thánh duy nhất trong khác biệt

    21. Chúng tôi tin rằng Hội thánh do Chúa Kitô sáng lập và được Chúa Kitô cầu nguyện cho, là duy nhất trong mối dây đức tin, phụng tự và hiệp thông phẩm trật. Giữa lòng Hội thánh, có sự đa dạng phong phú về nghi điển phụng vụ, sự khác biệt hợp pháp về gia sản thần học và tâm linh cũng như các kỷ luật địa phương; sự đa dạng không những không làm thiệt hại mà còn biểu lộ sự hợp nhất (x. LG 23).

    22. Công nhận rằng, ở bên ngoài cơ cấu Hội thánh Chúa Kitô “còn có nhiều yếu tố của sự thánh thiện và chân lý: những yếu tố này là của riêng Hội thánh Chúa Kitô cho nên thúc đẩy tiến tới sự hiệp nhất Công Giáo” (x. LG 8), tin tưởng nơi Chúa Thánh Thần đang thúc đẩy mọi người môn đệ Chúa Kitô lòng khao khát hiệp nhất (x. LG 15), chúng tôi hy vọng các Kitô hữu chưa hiệp nhất với Giáo hội duy nhất có ngày sẽ gặp nhau trong một đoàn chiên với một Chúa chiên.

    23. Chúng tôi tin rằng Hội thánh là cần thiết cho phần rỗi, bởi vì Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là con đường cứu độ duy nhất, đang hiện diện trong Giáo hội là nhiệm thể Người (x. LG 14). Nhưng ý định cứu độ của Thiên Chúa bao trùm hết mọi người: do đó những người thành tâm thiện chí trên thế giới, tuy không được biết Phúc Âm Chúa Kitô và Hội thánh của Người, nhưng vẫn đang thành tâm đi kiếm Thiên Chúa và nhờ ơn thánh, cố gắng tuân hành ý Chúa được biết qua lương tâm chỉ dẫn, thì họ vẫn có thể đạt được ơn cứu độ, mà chỉ Thiên Chúa mới biết con số những người đó là bao nhiêu (x. LG 16).

    VII. Bí tích Thánh Thể


    Chúa Kitô hiện diện trong hình bánh và rượu

    24. Chúng tôi tin Thánh Lễ do linh mục cử hành thay mặt Chúa Kitô, nhờ phép Truyền Chức, và được dâng nhân danh Chúa Kitô và Nhiệm Thể của Người, là lễ hy sinh núi sọ hiện diện một cách bí tích trên bàn thờ. Chúng tôi tin rằng cũng như xưa kia bánh và rượu được thánh hiến do Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly đã trở nên Thân Thể và Máu của Người sắp dâng làm của lễ trên thập giá vì chúng ta, thì ngày nay bánh và rượu được thánh hiến do các linh mục cũng trở nên Mình và Máu Thánh của Chúa Kitô đang ngự trị hiển vinh trên trời. Chúng tôi tin rằng Chúa Giêsu hiện diện cách huyền nhiệm nhưng đích thực, thực sự và bản thể, dưới những hình thể của bánh và rượu mà giác quan chúng ta nhìn thấy (x. Dz.-Sch. 1651).

    Bánh và rượu được biến thể

    25. Vì vậy trong bí tích này Chúa Kitô chỉ có thể hiện diện bằng cách biến đổi tất cả bản thể bánh thành Thân Thể của Người và tất cả bản thể rượu thành Máu của Người, mặc dù giác quan chúng ta vẫn thấy giữ nguyên các đặc tính của bánh và rượu. Sự biến đổi huyền diệu ấy được Giáo hội diễn tả đúng và thích hợp bằng thuật từ trans-substantiatio (biến đổi bản thể). Khi tìm cách hiểu rõ mầu nhiệm này, các nhà thần học muốn giải thích thế nào đi nữa thì cũng cần phải khẳng định rằng bản thể khách quan của bánh và rượu sau khi đã được thánh hiến thì không còn tồn tại nữa, mà chỉ có là Thân Thể và Máu đáng kính của Chúa Giêsu ngự thật dưới những hình thể của bánh và rượu (x. Dz.-Sch. 1642, 1651-1654; thông điệp Mysterium Fidei ); Chúa Giêsu đã muốn như thế để ban mình làm của nuôi chúng ta và liên kết chúng ta trong Nhiệm Thể của Người.

    Chúa Kitô hiện diện trên các bàn thờ

    26. Sự hiện hữu của Chúa Kitô vinh hiển trên trời là duy nhất, không thể phân chia và không thể nhân cấp, nhưng hiện diện cách bí tích trên các bàn thờ ở nhiều nơi trên thế giới khi cử hành Thánh lễ. Sau Thánh lễ, Người còn hiện diện trong bí tích cực thánh, nơi nhà tạm như là trung tâm sống động của mỗi nhà thờ. Đối với chúng ta, thật là một bổn phận rất dịu dàng được đến tôn kính, thờ lạy, trong Bánh Thánh mà mắt ta xem thấy, Ngôi Lời nhập thể mà mắt ta lại không thấy, tuy Ngài không bỏ trời mà vẫn hiện diện trước mặt chúng ta.

    VIII. Cánh chung


    Nước Thiên Chúa trên trần gian

    27. Chúng tôi cũng tuyên xưng rằng Nước Thiên Chúa khơi mào ở thế gian trong Hội thánh Chúa Kitô, nhưng không thuộc về thế gian này (x. Ga 18,36), mà hình bóng sẽ qua đi (x. 1Cr 7,13); sự phát triển của Hội thánh không thể so sánh với sự tiến bộ của văn minh, khoa học và kỹ thuật trần thế, nhưng hệ tại ở việc tìm hiểu thấu đáo hơn “những sự phong phú khôn lường của Chúa Kitô” (Ep 3,8), hy vọng mạnh mẽ hơn vào những của cải trên trời, và đáp trả hăng say hơn tình yêu của Thiên Chúa, và ban phát rộng rãi hơn ân sủng và sự thánh thiện cho loài người. Tuy nhiên, cũng do tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy, Giáo hội luôn lo lắng mưu cầu điều tốt thế tạm đích thực của nhân loại. Tuy Hội thánh không ngừng nhắc nhở con cái mình rằng họ không có quê hương ở dưới thế này (x. Dt 13,14), nhưng cũng luôn giục giã mọi người, tuỳ theo ơn gọi và phương tiện của mình, hãy góp phần vào việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, dựa trên công lý, hoà bình, và hiểu biết huynh đệ giữa mọi người, quảng đại giúp đỡ các anh em xấu số, cách riêng những nghèo nàn túng quẫn. Vì thế mối quan tâm của Hội thánh, Hiền thê Chúa Kitô, đối với những nhu cầu, những niềm vui và hy vọng, những nỗ lực và băn khoăn của con người, không nhằm gì khác hơn là làm sao ở gần mọi người để toả chiếu ánh sáng Chúa Kitô cho họ và để tập hợp tất cả trong Người là Đấng Cứu Tinh duy nhất của họ. Mối quan tâm ấy không hề có nghĩa là Hội thánh hòa đồng vào hoạt động trần thế, hoặc giảm bớt khát vọng mong đợi Chúa của mình và Vương quốc vĩnh cửu.

    Giáo Hội bên kia thời gian

    28. Chúng tôi tin vào cuộc sống muôn đời. Chúng tôi tin rằng các linh hồn tất cả những người an nghỉ trong ơn thánh Chúa, hoặc còn phải thanh lọc trong lửa luyện tội, hoặc khi lìa xác được Chúa đem lên đưa về thiên đàng như người trộm lành xưa, tất cả đều họp Dân Chúa đã vượt ranh giới sự chết; sự chết sẽ bị tiêu diệt vĩnh viễn vào ngày Phục sinh khi các linh hồn ấy sẽ được kết hợp với thân xác.

    Giáo Hội trên hạnh phúc thiên đàng

    29. Chúng tôi tin rằng đoàn ngũ đông đảo các linh hồn tụ họp chung quanh Chúa Giêsu và Mẹ Maria trên thiên đàng, họp thành Hội thánh khải hoàn trên Trời, nơi đây trong hạnh phúc vĩnh cửu các vị được hưởng tôn nhan Thiên Chúa tỏ tường (x. 1Ga 3,2; Dz.-Sch. 1000), và tuy với cấp bậc và cách thế khác biệt, các vị được cùng các thiên thần tham dự vào việc cai quản thần linh với Chúa Kitô trong vinh quang, và các vị không quên cầu bầu cho chúng ta và nâng đỡ sự yếu hèn chúng ta trong tình tương trợ huynh đệ (x. LG 49).

    Đời sống vĩnh cửu

    30. Chúng tôi tin vào sự hiệp thông của tất cả mọi tín hữu trong Chúa Kitô, những người còn sống đời lữ thứ trần gian, những người đã qua đời và còn đang được thanh luyện, các vị thánh trên trời, tất cả họp thành một Hội thánh; chúng tôi tin rằng trong mối thông hiệp này, tình yêu lân tuất của Thiên Chúa và của các Thánh luôn luôn sẵn sàng nghe lời chúng ta cầu xin, như Chúa Giêsu đã phán: “Hãy xin thì sẽ được” (x. Lc 10,9-10; Ga 16,24). Vì thế vững vàng trong niềm tin cậy chúng tôi trông đợi ngày kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.

    Chúc tụng Thiên Chúa ba lần thánh. Amen.

    Kết luận


    Sau khi đã long trọng đọc bản kinh Tin kính vào ngày 30/6 trước tiền đường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã có dịp giải thích ý nghĩa của kinh Tin kính trong các buổi tiếp kiến chung vào các ngày 3/7; 10/7 và 30/10 cùng năm. Dưới một góc độ nào đó, ta có thể nói được rằng bản kinh này đã phác họa một sơ đồ cho Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (phần thứ nhất), nhằm trình bày đạo lý cổ truyền với những ngôn ngữ thần học thời nay. Nên biết là Sách Giáo lý đã trích dẫn Kinh Tin kính Dân Chúa 14 lần[5].

    Để kết luận, chúng tôi xin dịch lời cầu nguyện xin ơn đức tin mà đức Phaolô VI đã đọc ở buổi tiếp kiến chung ngày 30/10/1968, sau khi đã giải thích ý nghĩa của việc tuyên xưng đức tin:
    • Lạy Chúa, con tin: con muốn tin vào Chúa. 
    • Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được trọn vẹn, không dè giữ; xin cho đức tin thấm nhập vào tư tưởng của con, nhận định của con về những công việc của Chúa và của loài người. 
    • Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được tự do: nghĩa là với sự tham gia gắn bó, chấp nhận những sự khước từ và những nghĩa vụ mà đức tin đòi hỏi, và biểu lộ quyết định cao vời nhất của bản thân qua câu nói: “Lạy Chúa, con tin vào Chúa”. 
    • Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được chắc chắn; chắc chắn nhờ những bằng chứng thích hợp và nhờ chứng tá nội tâm của Thánh Linh, chắc chắn nhờ ánh sáng trấn an của nó, nhờ kết luận an hòa của nó, nhờ sự hấp thụ yên hàn của nó. 
    • Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được vững mạnh; không sợ hãi những vấn đề trái nghịch, và đem thêm kinh nghiệm cho cuộc sống khao khát ánh sáng; không sợ hãi những chống đối của kẻ tranh biện, chống đối, khước từ, phủ nhận nó; nhưng được kiên cường trong bằng chứng của chân lý của Chúa, đương đầu với sự chỉ trích, được củng cố trong sự khẳng định liên tục vượt lên những khó khăn của sự biện bác nằm trong cuộc sống trên đời này. 
    • Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được vui tươi và mang lại an bình và hoan hỉ cho tinh thần, khiến nó có khả năng cầu nguyện với Thiên Chúa và giao tiếp với loài người, ngõ hầu chiếu tỏa hạnh phúc nội tâm nơi cuộc đàm đạo thiên linh hay trần tục. 
    • Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được năng động, và mang lại cho đức ái những lý do chiếu tỏa đạo đức, nhờ thế nó trở thành tình bạn chân thật với Chúa, và trở nên chứng tá liên tục cho Chúa trong các việc làm, trong những đau khổ, và nuôi dưỡng hy vọng đang khi chờ đợi sự mạc khải cuối cùng. 
    • Lạy Chúa, xin cho đức tin của con được khiêm tốn, không tự hào vì được lập trên kinh nghiệm của tư tưởng hay cảm tình của con, nhưng biết nương tựa vào chứng tá của Thánh Linh, và không có bảo đảm nào tốt hơn là ngoan ngoãn với Truyền thống và với uy tín của huấn quyền Hội thánh. Amen. 
    _______________
    [1] Hồi đó, ngày 30 tháng 6 kính nhớ thánh Phaolô sau lễ thánh Phêrô. Với cuộc cải tổ lịch phụng vụ (14/2/1969), hai thánh Tông đồ được mừng chung một ngày 29/6 như hiện nay.

    [2] Những chi tiết này do hồng y Georges Cottier O.P., người lo việc xuất bản các tác phẩm của hồng y Charles Journet (1891-1975), cung cấp cho ký giả Gianni Valente, trong cuộc phỏng vấn đăng trên nguyệt san Trentagiorni, tháng 4 năm 2008. Jacques Maritain (1882-1973) là một triết gia công giáo nổi tiếng, được đức Phaolô VI trao sứ điệp gửi giới trí thức vào lúc bế mạc công đồng Vaticanô II.

    [3] N.3: “quamvis definitio dogmatica vere proprieque non sit nominanda, tamen formulam Nicaenam, quoad rerum summam, repetit, nonnullis explicationibus, quas spirituales nostrae huius aetatis conditiones postulant: formulam dicimus immortalis traditionis Ecclesiae sanctae Dei”.

    [4] Ngoài sự cần thiết của việc tuyên xưng đức tin để được cứu rỗi, ngày nay việc tuyên xưng đức tin gặp vài khó khăn đặc biệt vì : 1. Tư tưởng duy lý chỉ chấp nhận những gì hợp với lý trí; 2. Thuyết hoài nghi không chấp nhận chân lý tuyệt đối; 3. Những học thuyết chú giải muốn thích nghi mạc khải cho hợp với tâm thức thời đại.

    [5] Nên biết là đức Gioan Phaolô II đã giải thích Kinh Tin kính trong loạt bài huấn giáo kéo dài từ năm 1985 đến năm 2000. Loạt bài này được mở đầu với những huấn giáo về đức tin (từ 13/3 đến 19/6/1985).