Hiển thị các bài đăng có nhãn Số Mới (2011...). Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Số Mới (2011...). Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2014

THỜI SỰ THẦN HỌC – SỐ 63, THÁNG 02/2014

CHỦ ĐỀ : THẦN HỌC ĐẠI KẾT

Phát hành ngày 18/01/ 2014, 
– Bắt đầu tuần lễ cầu nguyện cho Đại kết;
– Trung tâm Học vấn Đa Minh mừng Lễ thánh Bổn mạng Tôma Aquinô và trao bằng Cử nhân  Thần học.

LỜI GIỚI THIỆU


Cách đây 2 năm, chúng ta đã mừng kỷ niệm 50 năm khai mạc công đồng Vaticanô II. Sau những bước dò dẫm của giai đoạn I (11/10-8/12/1962), giai đoạn II (29/9-4/12/1963) đã đem về vài thành quả cụ thể với việc ban hành Hiến chế về phụng vụ và Sắc lệnh về truyền thông xã hội. Giai đoạn III (14/9-21/11/1964) kết thúc với việc ban hành Hiến chế về Hội thánh, Sắc lệnh về các Giáo hội Đông phương, Sắc lệnh về đại kết. Đó là chưa kể thông điệp Ecclesiam suam của đức Phaolô VI về đối thoại (6/8/1964).

Lời giới thiệu PDF
Dựa trên những kỷ niệm ấy, Thời sự thần học năm 2014 muốn trình bày hai chủ đề “Phụng vụ” và “Giáo hội”. Thực ra, đã có nhiều sách nghiên cứu về hiến chế Lumen gentium về Giáo hội, nhưng hai sắc lệnh về Đại kết (Unitatis redintegratio) và các Giáo hội Đông phương (Orientalium ecclesiarum) thì ít được để ý. Vì thế chúng tôi muốn dành số báo đầu tiên của năm 2014 cho Thần học đại kết, cũng nhằm ghi nhớ cuộc gặp gỡ lịch sử giữa đức Phaolô VI giám mục Rôma và đức Athenagoras giám mục Constantinople vào ngày 5/1/1964 tại Giêrusalem (đôi bên đã ra vạ tuyệt thông cho nhau từ năm 1054). Thời điểm này cũng trùng với tuần lễ cầu nguyện cho hợp nhất, được tổ chức hằng năm từ ngày 18 đến 25 tháng Giêng dương lịch.

Tại Việt Nam, hoạt động đại kết không được quan tâm lắm. Uỷ ban đại kết chưa được thiết lập tại Hội đồng Giám mục và các giáo phận! Các chủng viện và học viện không có môn “thần học đại kết” tuy là một môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo linh mục tại các chủng viện (x. Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis 1985, số 80)[1]. Chương trình học của Trung tâm Học vấn Đa Minh cũng không có môn này (mặc dù đã được dự kiến trong Chương trình học vấn của dòng, số 22).

Số báo này muốn cung cấp vài dữ liệu cho việc “đào tạo đại kết” tại Việt Nam, nơi mà ngoài Giáo hội Công giáo, còn có sự hiện diện của 30 tông phái Tin lành. Chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận hai điều : 1/ Không ai biết đích xác có bao nhiêu tông phái Tin lành trên thế giới (có người ước tính tới 20.000). 2/ Không phải tất cả các tông phái Tin lành đều tha thiết với sự hợp nhất các Kitô hữu, thậm chí có những phái còn chống đối phong trào đại kết nữa. Mặc dù vậy, Giáo hội Công giáo vẫn được thúc đẩy tiến tới sự hợp nhất giữa các môn đệ của Đức Kitô “ngõ hầu thế gian tin...” (Ga 17,21). Sự chia rẽ giữa các giáo hội Kitô là một phản chứng cho việc loan báo Tin Mừng.

Nội dung số này gồm ba phần: lịch sử, địa lý, không gian đại kết.


Phần thứ nhất mang tính “lịch sử”, với hai bài: 

– Lịch sử những cuộc phân ly và hợp nhất: nhìn lại nguồn gốc những cuộc phân ly trong Hội thánh cũng như những nỗ lực hàn gắn qua phong trào đại kết thế kỷ XX. 

– Giáo hội Công giáo với việc đại kết: so sánh thái độ của Giáo hội Công giáo trước và sau Vaticanô II đối với công cuộc đại kết. “Thần học đại kết” được bàn trong bối cảnh ấy (mục tiêu của công cuộc đại kết là gì? Các Kitô hữu tham gia hoạt động đại kết bằng cách nào? Mô hình hợp nhất các Kitô hữu sẽ như thế nào?)
Nữ 'giám mục' Giáo hội Methodist tại THĐGM thế giới 2012. Xem thêm bản tin của L'osservatore Romano tại đây

Phần thứ hai được đặt tên là “địa lý đại kết”, tìm hiểu căn cước của các giáo hội và giáo đoàn ở ngoài Giáo hội Công giáo, gồm hai bài: 

– Các Giáo hội Đông phương, với những khuôn mặt đa dạng. 

– Đối với các Giáo hội Cải cách, với hàng ngàn tông phái, chúng ta chỉ có thể cố gắng phân tích những “đợt” tiến triển: theo các sử gia, từ thế kỷ XVI (bắt đầu cuộc Cải cách của Luther) đến nay, đã có bốn đợt chia rẽ trong lòng nội bộ! Bài này kết thúc với việc giới thiệu sơ lược các tông phái Tin lành Việt Nam, hầu hết xếp vào các đợt thứ ba và thứ bốn trong lịch sử cuộc Cải cách. Nên lưu ý tựa đề “Cải cách” (chứ không phải Tin lành) vì lý do sẽ giải thích dưới đây. 

Phần thứ ba gọi là “không gian đại kết”, lấy từ hình ảnh một chuyến du hành trên phi cơ do hồng y Kurt Koch (chủ tịch Hội đồng Toà thánh cổ võ sự hợp nhất các Kitô hữu) sử dụng để điểm qua Tình hình đại kết hiện nay (2012) giữa Giáo hội Công giáo với Giáo hội khác.

Số báo kết thúc với bài viết của cha Giuse Nguyễn Văn Am, SDB Vài nét đặc trưng nơi diện mạo Đức Kitô theo Vatican II. Chính Đức Kitô mới là đích điểm của tất cả các hoạt động của Hội thánh. Chính Đức Kitô mới là “Ánh sáng muôn dân” (Lumen gentium). Nói cho cùng, hoạt động đại kết chỉ có thể thực hiện khi chúng ta “trở lại” với Đức Kitô.

Hy vọng rằng số báo sẽ cung cấp một ít dữ liệu cho lớp “thần học về đại kết”[2], cũng như giúp độc giả có một ý niệm về các tông phái “Tin lành” (một mẫu số với rất nhiều tổ chức khác nhau về đạo lý, phụng tự, cơ cấu). 

Ngoài ra, nhờ việc truy tầm lịch sử, chúng ta sẽ nhận thấy rằng trong lãnh vực này, việc sử dụng từ ngữ còn khá nhiều điểm bất cập. Chỉ cần trưng ra một thí dụ thì đủ rõ: cùng một thuật ngữ (tiếng Việt) “Tin lành” được dùng để dịch ba ý tưởng khác biệt “evangelical, reformed, protestant”! Chúng ta cũng hãy khiêm tốn thú nhận rằng dịch “catholic” là “công giáo” thì cũng chưa chính xác! Vì thế chúng tôi thấy cần phải mở đầu với những nhận xét về từ ngữ.

TTHVĐM

TRONG SỐ NÀY_________
--------

[1] Pontifical Council for Promoting Christian Unity, The ecumenical dimension in the formation of those engaged in pastoral work (1998), n. 8. 

[2] Có người phân biệt (x. văn kiện kể trên số 9): “thần học về đại kết” (theology of ecumenism) bàn về lịch sử và thần học của việc đại kết - và “thần học đại kết” (ecumenical theology) nghiên cứu thần học dưới lăng kính đại kết, trình bày những lối nhìn khác nhau về các vấn đề tín lý hoặc luân lý. Một thí dụ thần học đại kết có thể thấy nơi Peter Eicher (ed), Nouveau Dictionnaire de Théologie, Cerf Paris 1988: những mục từ chính được trình bày theo quan điểm của Công giáo và của Cải cách.

Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

THỜI SỰ THẦN HỌC - SỐ 62 - THÁNG 11/2013

CHỦ ĐỀ : ĐỨC TIN VÀ TÍN NGƯỠNG

Phát hành 24/11/2013, kết thúc Năm Đức Tin

LỜI GIỚI THIỆU


Nhân dịp Năm Đức tin, Thời sự thần học đã dành bốn số để trình bày những khía cạnh khác nhau của đức tin, đặc biệt nhân kỷ niệm ban hành những văn kiện của Toà thánh: “Năm Đức tin” (số 58 – Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo). “Thông truyền đức tin” (số 59 – Bộ giáo luật). “Đức tin và những vấn đề xã hội” (số 60 – Thông điệp Pacem in terris). “Đức tin và luân lý” (số 61 – Thông điệp Veritatis splendor). Chủ đề của số này là “Đức tin và tín ngưỡng” được phát hành vào dịp bế mạc Năm đức tin (24/11/2013). Có nhiều cách tiếp cận đề tài “Đức tin và tín ngưỡng”.

Lời giới thiệu PDF
1. Một luồng thần học Tin lành (đại biểu nơi Karl Barth) đối chọi giữa đức tin và tín ngưỡng (faith and religion), dựa theo sự đối chọi giữa đức tin và việc làm mà thánh Phaolô đề cập trong thư Rôma. Theo họ, “tín ngưỡng” (tôn giáo) tượng trưng cho nỗ lực của con người đi tìm sự cứu độ dựa trên những việc làm, thay vì đón nhận hồng ân bằng “đức tin”. Đức tin được xem như cái tinh ròng của Kitô giáo, còn tín ngưỡng là chung cho các tôn giáo. Vì thế Kitô giáo là đức tin chứ không phải là tôn giáo. Nên biết là trong bản dịch Kinh Thánh Vulgata, từ “religio” chỉ xuất hiện ba lần với ba nghĩa khác nhau (Cv 26,5; Cl 2,18; Gc 1,25-27). 

2. Thần học luân lý của trường phái Tôma cũng phân biệt giữa “đức tin” (fides: Summa Theologica II-II, q.1-16) là một nhân đức đối thần, và “tín ngưỡng” (religio: Summa Theologica II-II, q.81-99) là một nhân đức luân lý, quen dịch là nhân đức thờ phượng. Fides nhằm đến chính Thiên Chúa, còn religio là những hành vi diễn tả lòng tôn kính phụng sự Ngài. Sự phân biệt giữa hai nhân đức vẫn còn được duy trì trong Sách Hội thánh Công giáo: fides (đức tin, số 2087) thì khác với religio (đức thờ phượng số 2095) tuy cùng thuộc về điều răn thứ nhất.

3. Ngược lại, trong những khoa tôn giáo đối chiếu, các từ ngữ faith, belief, religion thường được dùng như đồng nghĩa để ám chỉ các tín ngưỡng hoặc tôn giáo, chẳng hạn như interfaith dialogue hoặc interreligious dialogue. Trong ngôn ngữ thần học ở Việt Nam, “đức tin” thường được dành cho nhân đức siêu nhiên, khác với “lòng tin, niềm tin” là một tâm tình tự nhiên; tuy vậy cả hai cùng chung một gốc “tin” (hoặc tín theo tiếng Hán). 

Trong số báo này, chúng tôi chỉ giới hạn vào một góc cạnh. Sau khi đã bàn về đức tin Kitô giáo (xem bài “Đức tin trong thần học”, số 58), chúng ta thử tìm hiểu: “Tin” có ý nghĩa gì nơi các tôn giáo khác?

1. Ba bài khảo cứu của Nhóm Nghiên cứu Đông phương thuộc Học viện Đa Minh tìm biểu quan niệm “tin” trong ba tôn giáo cổ điển châu Á:

– Lê Đức Thiện, Một số điểm căn bản trong niềm tin Ấn giáo cho thấy sự tiến triển về tin trải qua ba giai đoạn của tôn giáo này.

– Nguyễn Hải Đăng, Tin trong quan niệm giải thoát của Phật giáo cũng nêu bật sự tiến triển về “tin”, đặc biệt liên quan đến thân thế của Đức Phật: từ chỗ lắng nghe một vị thầy, đến chỗ quy y Tam Bảo, và niệm Phật của Tịnh độ tông (tín – nguyện – trì).

– Trần ngọc Thiện, Tin trong tư tưởng Nho giáo phân tích ba chiều kích khác nhau của chữ Tín: trong tương quan với bản thân, trong tương quan với mọi người, trong tương quan với Siêu việt.

Chúng ta nhận thấy những điểm nhấn khác nhau về Tin trong ba tôn giáo này cũng như sự tiến triển trong mỗi tôn giáo. 

2. Trong bài Thần học các tôn giáo dưới lăng kính của Công đồng Vaticanô II, linh mục Nguyễn Tiến Dưng trình bày những cái nhìn của thần học Công giáo về các tôn giáo trong thế kỷ XX.

3. Đối lại với “tin/tín ngưỡng” là “không tin/vô tín ngưỡng”. Tuy nhiên, bài thuyết trình “Giáo hội với những người vô thần, vô tín ngưỡng” của Linh mục Phan Tấn Thành tại Trung tâm Học vấn Đa Minh ngày 13/4/2013 đã lưu ý sự khác biệt ý nghĩa giữa “vô thần” và “vô tín ngưỡng”, hoặc nói đúng hơn, tính cách đa dạng của hai hiện tượng này.

4. Hai bài viết cuối cùng mang tính “thời sự”. 

– Năm nay kỷ niệm 25 năm phong thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam. Niên trưởng các linh mục Việt Nam là thánh Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm, O.P. Ngài được gán là tác giả tập sách “Hội đồng tứ giáo”. Bài viết của Nhóm Vinh sơn Liêm phân tích nội dung tác phẩm, và những vấn đề được đặt ra liên quan đến tác giả và phương pháp biên soạn. Nên coi tác phẩm như là một tài liệu huấn giáo hơn là một cuộc tranh luận lịch sử.

– Năm Đức tin được bắt đầu với kỷ niệm 50 năm khai mạc công đồng Vaticanô II (11/10/1962) và kết thúc vào dịp kỷ niệm 450 năm bế mạc công đồng Trentô (4/12/1563), hai công đồng quan trọng vào thời cận đại, đánh dấu những khúc ngoặt trong lịch sử Giáo hội. Trong bối cảnh ấy, Bình Hoà sẽ ôn lại “Các công đồng trong lịch sử Giáo hội”.

Đề tài “tín ngưỡng” sẽ còn được bàn trong những số tới, chẳng hạn: các giáo phái, các tôn giáo mới, tín ngưỡng dân gian, mê tín. Các chủ đề của những số Thời sự Thần học sẽ xuất bản tiếp theo trong Niên khoá 2013-14 :
– Số 63 (tháng 02/2013) : Thần học đại kết 
– Số 64 (tháng 05/2013) : Phụng vụ và lòng đạo đức bình dân 
– Số 65 (tháng 08/2013) : Giáo hội học và Thánh mẫu học

Nhân đây, chúng tôi xin được nhắc lại các số Thời sự Thần học đã xuất bản liên quan đến chủ đề các tôn giáo và các bài viết cũng đã được đăng lại trên http://www.tsthdm.blogspot.com :
– Số 13 (tháng 09/1998) – Thần học về các Tôn giáo. 
– Số 21 (tháng 09/2000) – Đối thoại Liên tôn. 
– Số 35 (tháng 03/2004) – Những nẻo đường Tâm linh Châu Á.

Thân kính,
TTHVĐM

NỘI DUNG
177

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

THỜI SỰ THẦN HỌC - SỐ 61 - THÁNG 8/2013

CHỦ ĐỀ : ĐỨC TIN & LUÂN LÝ

LỜI GIỚI THIỆU

Số báo này được phát hành nhân kỷ niệm 20 năm Đức thánh cha Gioan Phaolô II ban hành thông điệp Veritatis splendor bàn về nền tảng luân lý Kitô giáo (6/8/1993). Không phải do tình cờ mà thông điệp ra đời gần một năm sau Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, như chúng tôi đã có dịp trình bày khi giới thiệu văn kiện . Lần này, trong khuôn khổ Năm Đức tin, chúng tôi muốn chú trọng đến vài khía cạnh của thần học luân lý có liên quan đến đức tin. Trước hết, thiết tưởng nên nói qua ý nghĩa của tựa đề “đức tin và luân lý”, bởi vì có thể hiểu ít là theo ba nghĩa.

Lời giới thiệu PDF
1/ “Đức tin và luân lý” có thể hiểu là đức tin cần đi đôi với hành động. Kinh Thánh đã nhiều lần nhắc nhở điều này: “Đức tin cần được linh hoạt nhờ lòng yêu thương” (Gl 5,6). “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Nói cách khác, để được vào Nước Trời cần có “chính tri kiến” (orthodoxia) cũng như “chính hành động” (orthopraxis). Điều này được thông điệp Veritatis splendor nhắc nhở ở các số 26; 88-89.

2/ Ta có thể đảo ngược hai vế “đức tin và luân lý” thành “luân lý và đức tin”, và như vậy vấn đề sẽ là: luân lý cần phải phù hợp với đức tin. Thực vậy, không có một thứ luân lý “trung lập”, nhưng mỗi nền luân lý (ngày nay thường gọi là “đạo đức”) đều phản ánh một tín ngưỡng, một triết lý, một ý thức hệ nào đó: luân lý Kitô giáo, luân lý Phật giáo, luân lý Khổng Mạnh, đạo đức cách mạng, v.v.. Một câu hỏi đương nhiên được nêu lên: đâu là những nét đặc trưng của luân lý Kitô giáo? Luân lý Kitô giáo cũng giống như các đạo khác (đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành mà), hay có những nét độc đáo? Nếu luân lý Kitô quả thật là độc đáo thì liệu có thể áp dụng cho tất cả mọi người không? 

3/ Riêng đối với Giáo hội Công giáo, cụm từ “đức tin và luân lý” còn mang một ý nghĩa đặc biệt, đó là giới hạn phạm vi chuyên môn của quyền giáo huấn (huấn quyền). Huấn quyền không có thẩm quyền để phát biểu về bất cứ vấn đề nào trên thế giới (thiên văn, vật lý, chính trị, kinh tế, thể thao, v.v.), nhưng chỉ lên tiếng trong lãnh vực chuyên biệt của mình, đó là “đức tin và luân lý”. Nếu muốn dịch sát nguyên bản Latinh thì phải nói “đức tin và phong hoá” (fides et mores). Tuy nhiên, theo sự nghiên cứu lịch sử của cha Piet Fransen , vào thời các giáo phụ (điển hình nơi thánh Augustinô) và Trung cổ (với thánh Tôma Aquinô), thuật ngữ này ám chỉ tất cả đời sống đạo của Hội thánh (bao hàm đạo lý, các bí tích, luật pháp). Nhưng vào đời cận đại (với Francisco Suarez), thuật ngữ này chuyển sang nghĩa đối thể, đó là: “đạo lý đức tin và luân lý”, đối tượng của quyền giáo huấn (mores không còn là “phong hoá, phong tục” như nguyên ngữ nữa, nhưng được hiểu như là mệnh lệnh luân lý). Thuật ngữ này được sử dụng ở Vaticanô I (Hiến chế Pastor Aeternus), Vaticanô II (Hiến chế Lumen gentium và Dei verbum), các văn kiện Toà thánh (chẳng hạn Huấn thị Donum veritatis, Thông điệp Veritatis splendor) để nói đến thẩm quyền giảng dạy của các giám mục. 

Vào những năm sau công đồng Vaticanô II, có những ý kiến cho rằng Huấn quyền không có thẩm quyền can thiệp vào các vấn đề luân lý (bởi vì các chân lý về luân lý không nằm trong “gia sản đức tin” – depositum fidei, nhưng thuộc lãnh vực lý trí). Không lạ gì mà ta thấy các văn kiện của Toà thánh đã nhấn mạnh đến khía cạnh này, chẳng hạn như Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 2032-2040 .

Cho dù chấp nhận thẩm quyền của Huấn quyền trong lãnh vực luân lý trên nguyên tắc, nhưng một cuộc tranh luận đã diễn ra giữa các nhà thần học xét về thực tế: có bao giờ Hội thánh tuyên bố với tính cách bất khả ngộ một điều nào thuộc lãnh vực luân lý tương tự như trong phạm vi đức tin không? Nói cách khác, giáo huấn về luân lý có mang tính bất biến không, hay là có thể thay đổi? Không thiếu những bằng cớ về sự thay đổi như vậy, thí dụ như về việc cho vay ăn lời, nạn nô lệ, tự do tín ngưỡng . Một thí dụ khác về sự tiến triển có thể nhận thấy nơi quan điểm về án tử hình (số 2266-2267) giữa ấn bản đầu tiên của sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (bằng tiếng Pháp năm 1992) và ấn bản chuẩn (bằng tiếng Latinh năm 1997). 

Thiết tưởng nên ghi nhận vài điểm sau đây:

a- Trong thông điệp Evangelium vitae, Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã tuyên bố ba chân lý “bất khả ngộ” liên quan đến sự sống: Giáo hội chống lại việc trực tiếp giết người vô tội (số 57), sự phá thai (số 62), trợ tử (số 65). Nói khác đi, đã có những trường hợp Huấn quyền khẳng định rằng một đạo lý liên quan đến luân lý thuộc về gia sản đức tin, mặc dù không nhiều lắm.

b- Nhiều văn kiện liên quan đến luân lý đã được Bộ Giáo lý Đức tin xuất bản (chẳng hạn như về phá thai, luân lý giới tính, hôn nhân đồng tính, luân lý sinh học) , nhưng chắc chắn là không phải “bất khả ngộ” bởi vì đặc ân này chỉ dành cho Đức thánh cha và Tập đoàn giám mục chứ không nối dài sang một cơ quan của Toà Thánh.

c- Một lãnh vực mới mẻ của Huấn quyền là giáo huấn xã hội. Các Giáo hoàng đã viết nhiều thông điệp liên quan đến các vấn đề xã hội (xem danh mục trong Thời sự thần học số 60, trang 206-207). Khi bàn đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, Huấn quyền tuyên bố rằng mình can thiệp vào các lãnh vực này dưới khía cạnh “luân lý” (x. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 2246; 2420, trưng dẫn Gaudium et spes số 76). Tuy nhiên, để giải thích đúng đắn các văn kiện, cần phải phân biệt ba cấp độ : 

(i) những nguyên tắc suy tư (principes de réflection) có tính cách bền vững, bởi vì dựa trên Kinh Thánh hay luật tự nhiên; 

(ii) những tiêu chuẩn phán đoán (critères de jugement) thì tùy thuộc vào hoàn cảnh nhất thời; c) những định hướng hành động (orientations pour l’action) mang tính thời sự, tùy nơi tùy thời . Thiết tưởng cũng có thể áp dụng sự phân biệt các cấp độ như vậy khi nghiên cứu các văn kiện Toà thánh về luân lý nói chung.

d- Mặt khác, đừng nên quên rằng một vấn đề nữa cũng được nêu lên từ sau công đồng Vaticanô II, đó là ý nghĩa của “thần học luân lý” (theologia moralis) khi đối chiếu với “thần học tâm linh” (theologia spiritualis). Trước đây, người ta quan niệm rằng thần học “luân lý” chú trọng đến mười điều răn, nhằm giúp cho các giáo dân tránh phạm tội trọng sa hoả ngục; còn thần học “tâm linh” (hay “thiêng liêng”) dành cho các tu sĩ muốn nên trọn lành qua việc thực tập các nhân đức. Công đồng Vaticanô II đã sửa lại quan niệm ấy, khi nhấn mạnh rằng tất cả các tín hữu đều được mời gọi nên thánh (Hiến chế tín lý về Hội thánh, Chương Năm). Vì thế, luân lý Kitô giáo cũng bao gồm các nhân đức nữa, như thánh Tôma Aquinô đã trình bày trong sách Tổng luận thần học. Hiểu như vậy, thiết tưởng phải kể tới hai thông điệp Deus caritas est và Spe salvi của đức giáo hoàng Bênêđictô XVI vào “giáo huấn luân lý” và thông điệp Lumen fidei của vị kế nhiệm nữa. Thế nhưng ba văn kiện này không đặt ra vấn đề “thẩm quyền giảng dạy”.

e- Sau cùng, từ sau công đồng Vaticanô II, Bộ Giáo lý Đức tin có hai cơ quan tư vấn thần học, đó là Ủy ban Giáo hoàng về Kinh Thánh và Ủy ban Thần học quốc tế. Hai cơ quan này cũng phát hành nhiều văn kiện liên quan đến luân lý, mang tính cách nghiên cứu chứ không thuộc về huấn quyền . Liên quan đến vấn đề luân lý, gần đây có hai văn kiện. Ủy ban Kinh Thánh đã phát hành văn kiện Kinh Thánh và luân lý (11/5/2008), đề tài cho một bài của số này. Văn kiện của Ủy ban Thần học quốc tế, mang tựa đề “Đi tìm một nền luân lý phổ quát: một cái nhìn mới về luật tự nhiên (năm 2009), đã được giới thiệu trong Thời sự thần học số 55 (trang 81-109). Thoạt tiên xem ra hai văn kiện này đối lập với nhau: một bên nêu bật tính độc đáo của luân lý mạc khải của Kitô giáo, bên kia muốn đề ra một nền luân lý có giá trị cho hết mọi người, thuộc bất cứ tín ngưỡng tôn giáo nào. Trên thực tế, cần phải áp dụng cả hai nguyên tắc “tương đồng” và “tương phản”, khi đối chiếu luân lý Kitô giáo với luân lý của các dân tộc, như văn kiện “Kinh Thánh và luân lý” đã ghi nhận.

Trước khi giới thiệu các bài viết, chúng tôi xin lưu ý về việc sử dụng từ ngữ. Ở đây chúng tôi dùng từ “luân lý” (hay “thần học luân lý”), mặc dù ở Việt Nam, từ “đạo đức” xem ra phổ biến hơn. Điều này cũng xảy ra trong các ngôn ngữ châu Âu, với hai từ “éthique” và “morale” , tuy các tác giả chưa nhất trí khi giải thích sự khác biệt giữa hai từ này.

Có rất nhiều vấn đề “thời sự” về thần học luân lý, xét vì phạm vi nghiên cứu của nó càng ngày càng mở rộng, chẳng hạn như “Học thuyết xã hội của Giáo hội” (được trình bày trong Thời sự Thần học – số 60 vừa rồi). Những vấn đề luân lý liên quan đến đức tin cũng không phải là ít (chẳng hạn các nghĩa vụ cũng như những tội trái nghịch) mà chúng tôi hy vọng sẽ bàn trong số tới. Trong số này, chúng tôi chỉ chọn lựa một vài đề tài luân lý, được phân làm hai mục lớn: 1/ luân lý nền tảng; 2/ thời sự Việt Nam.

A. Vài vấn đề thuộc thần học luân lý nền tảng 

1. Linh mục Phạm Hoàng Dũng, O.P. cho thấy sáu vấn đề tranh luận lớn của thần học luân lý từ sau công đồng Vaticanô II, (được gọi là sáu “công trường thi công”) đó là: tiêu chuẩn đánh giá hành vi luân lý; Kinh Thánh và thần học luân lý; luật tự nhiên; nền tảng của luân lý Kitô giáo; vai trò của huấn quyền; luân lý các nhân đức. Điều đáng lưu ý là thần học luân lý càng ngày càng xích lại gần Kinh Thánh, tín lý, phụng vụ.

2. Linh mục Cao Chu Vũ, O.P. đọc lại thông điệp Veritatis Splendor và vạch ra những vấn đề thần học luân lý được nêu lên.

3. Kinh Thánh và luân lý. Như đã nói trên, đây là tựa đề của một văn kiện của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh Thánh phát hành vào lễ Hiện xuống năm 2008, gồm hai phần chính. Phần thứ nhất mang tựa đề là “Một nền luân lý mạc khải: quà tặng của Thiên Chúa và sự đáp trả của con người”, trình bày những nét chính của luân lý Kinh Thánh. Tựa đề của phần thứ hai là “Vài tiêu chuẩn Kinh Thánh để suy tư về luân lý”, trình bày vài nguyên tắc trong Kinh Thánh có thể giúp tìm ra những giải pháp cho các vấn đề luân lý thời nay.

4. Một áp dụng cụ thể của Kinh Thánh vào luân lý là tìm hiểu “Đức Kitô trong thần học luân lý”. Chủ đề này cũng là dịp để ôn lại những nét chính của Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo và thông điệp Veritatis splendor: hai cách tiếp cận của cùng một ý hướng đặt Đức Kitô làm trung tâm của luân lý Kitô giáo.

B. Vài vấn đề thời sự

5. Một vấn đề luân lý nóng bỏng của thế giới và Việt Nam là hôn nhân đồng tính. Một bài viết của cha Nguyễn Anh Tuấn trình bày quan điểm của Giáo hội. Vấn đề cũng được trình bày dưới quan điểm khoa học do Hiệp hội các y sĩ Công giáo Hoa Kỳ.

6. Bác sĩ Trần Như Ý Lan, C.N.D. cho chúng ta biết tình hình của luân lý sinh học tại Việt Nam xét về lý thuyết cũng như thực tế.

7. Năm Đức tin cũng trùng với kỷ niệm 40 năm thành lập Liên hiệp các Hội đồng Giám mục Á châu (FABC), với Đại Hội được tổ chức tại Xuân Lộc vào tháng 12 năm ngoái. Biến cố này được Đức Cha Bùi Văn Đọc thuật lại trong bài thuyết trình tại buổi Hội thảo diễn ra tại Trung tâm Học vấn Đa Minh ngày 19 tháng 4 vừa qua: FABC và việc loan báo Tin Mừng tại châu Á. Bài thuyết trình thứ hai mang tựa đề “Giáo hội với những người vô thần, vô tín ngưỡng” được thay thế bởi bài viết của linh mục Nguyễn Văn Am, S.D.B. Một vài ghi nhận về những đóng góp của Giáo hội tại Việt Nam về giáo dục

8. Sau cùng là mục giới thiệu thông điệp Lumen fidei vừa được đức Phanxicô ban hành ngày 5/7/2013.

 Trân trọng giới thiệu
TTHVĐM

TRONG SỐ NÀY__________


Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

THỜI SỰ THẦN HỌC - SỐ 60 - THÁNG 5/2013

CHỦ ĐỀ : ĐỨC TIN & NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI

LỜI GIỚI THIỆU


Số báo này được phát hành nhân kỷ niệm 50 năm thông điệp Pacem in terris của chân phước Gioan XXIII. Văn kiện này có nhiều đặc điểm. 1/ Thông điệp được ban hành vào ngày 11-4-1963 và được xem như chúc thư của vị giáo hoàng đã khai mạc công đồng Vaticanô II trước đó sáu tháng (11-10-1962), và đã để lại ảnh hưởng không nhỏ đến các văn kiện của công đồng, đặc biệt là Hiến chế về Hội thánh trong thế giới ngày nay. 2/ Thông điệp đã hướng đến một hạng độc giả mới, đó là “tất cả những người thiện chí”, chứ không chỉ dành riêng cho các “con cái của Hội thánh”. 3/ Thông điệp mở ra một hướng đối thoại với thế giới: nhìn nhận những giá trị tích cực của văn hóa thời đại, đặc biệt là việc tranh đấu cho nhân quyền.

Lời giới thiệu PDF
Các bài viết được lựa chọn nhằm nêu bật vài tư tưởng thời sự liên quan đến Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, cách riêng trong lãnh vực nhân quyền, chính quyền và hòa bình. Hầu hết là những bài thuyết trình của các chuyên gia về Học thuyết xã hội của Giáo hội. 

1. Mở đầu, đức cha Mario Toso, SDB, tổng thư ký Hội đồng Tòa thánh về Công Lý và Hòa bình, trình bày tính thời sự của thông điệp “Pacem in terris” khi điểm lại việc tiếp nhận vào các văn kiện của công đồng Vaticanô II và các vị giáo hoàng kế tiếp. 

2. Linh mục Rafael Ma Sanz de Diego, SJ, giáo sư đại học Comillas (Madrid) trình bày sự tiến triển của Học thuyết Xã hội của Giáo hội, kể từ thông điệp Rerum novarum của đức giáo hoàng Lêô XIII (1891) đến nay. Phạm vi của những đề tài được mở rộng dần, từ những vấn đề kinh tế xã hội (quyền tư hữu, lao động), sang các vấn đề chính trị (chính quyền, hòa bình), rồi đến tất cả những vấn đề của nhân loại: phát triển, môi sinh, văn hóa. 

3. Đi xa hơn một bước nữa, trong bối cảnh Năm Đức tin, linh mục José Bullón Hernández trả lời các câu hỏi: tại sao Giáo hội can thiệp vào các vấn đề xã hội? Học thuyết xã hội có liên quan gì đến sứ mạng loan báo Tin Mừng không? Học thuyết xã hội có ý nghĩa gì trong năm Đức tin? 

4. Thông điệp Pacem in terris là văn kiện đầu tiên của Tòa thánh đề cập đến vấn đề nhân quyền cách mạch lạc. Đức hồng y Tarcisio Bertone, quốc vụ khanh Tòa thánh, trình bày quan điểm của Giáo hội về nhân quyền, cách riêng là giáo huấn của đức thánh cha Bênêđictô XVI. 

5. Có lẽ khi bàn về nhân quyền, nhiều người công giáo không biết rằng Bộ Giáo luật (được ban hành cách đây 30 năm) đã dành một chương cho những nghĩa vụ và quyền lợi của các Kitô hữu. Linh mục Lorenzo Lo Russo O.P. tìm hiểu ý nghĩa của bản “tuyên ngôn” ấy, so sánh sự khác biệt và tương đồng trong quan niệm về “nhân quyền” trong luật pháp quốc gia và “quyền lợi tín hữu” trong bộ giáo luật. 

6. Thông điệp Pacem in terris đã nhìn nhận cuộc tranh đấu cho phụ nữ được bình quyền với nam giới như là một “dấu chỉ thời đại”. Tuy nhiên, giáo sư Anna Maria Lopez cho thấy rằng các phong trào nữ quyền ở cuối thế kỷ XX đã vượt xa ý tưởng bình đẳng: qua “ý thức hệ gender” họ chủ trương cần xóa bỏ sự khác biệt giữa hai phái nam nữ. 

7. Nội dung của thông điệp Pacem in terris liên quan đến các vấn đề “chính trị” hơn là các vấn đề “kinh tế”. Linh mục Phan Tấn Thành ôn lại sự tiến triển của Giáo huấn Hội thánh về các vấn đề chính trị, cách riêng là quyền bính; trong lãnh vực quốc tế, thông điệp đã mở một hướng mới khi đề cập đến “chiến tranh và hòa bình”. 

8. Cuối cùng, Phụ lục liệt kê các tài liệu huấn quyền, một số thư mục và chủ đề liên quan đến Học thuyết Xã hội của Giáo hội, dành cho những ai muốn nghiên cứu thêm về đề tài này. 

Thời sự thần học - số 12 (tháng 6 năm 1998) đã có nhiều bài viết về Học thuyết Xã hội của Giáo hội và các bài này cũng đã được đăng lại trên http://tsthdm.blogspot.com. 

TTHVĐM 


TRONG SỐ NÀY________________ 

Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013

THỜI SỰ THẦN HỌC - SỐ 59 - THÁNG 2/2013

Chủ đề : THÔNG TRUYỀN ĐỨC TIN

LỜI GIỚI THIỆU


Nhân dịp Năm Đức tin, kỷ niệm 50 năm khai mạc công đồng Vaticanô II và 20 năm ban hành Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, Thời sự Thần học số 58 đã dành nhiều bài cho các biến cố ấy. Số 59 tiếp tục những đề tài vừa rồi dưới tựa đề “Thông truyền đức tin” trùng với chủ đề của Thượng Hội Đồng Giám mục họp vào tháng 10 năm ngoái. Đây là một sứ mạng của toàn thể Giáo hội và bao gồm nhiều lãnh vực: chứng tá đời sống, rao giảng Lời Chúa, phụng vụ, hoạt động bác ái. Chúng tôi muốn giới hạn vào tác vụ Lời Chúa (ministerium Verbi) dưới các hình thức: giảng dạy, giáo dục, suy tư thần học.

Lời giới thiệu PDF
1. Ngay từ thời các thánh tông đồ, huấn giáo được coi như một công tác quan trọng trong việc đào tạo đức tin. Tuy nhiên, trải qua dòng thời gian, đã có những thay đổi quan điểm về huấn giáo: dành cho các dự tòng sắp lãnh nhận các bí tích dự tòng, hay dành cho những người đã được rửa tội và cần được học hỏi để hiểu biết thêm đức tin. Những phương thế sử dụng vào việc huấn giáo cũng thay đổi, cách riêng từ thế kỷ thứ XVI với sự xuất hiện hình thức Sách Giáo lý. Bài viết về catechesis – catechismus – catechetica theo dõi mối liên hệ giữa ba khái niệm (huấn giáo, sách giáo lý, khoa huấn giáo) từ xưa đến nay.

2. Trong các văn kiện công đồng Vaticanô II, có lẽ Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo Gravissimum educationis ít được chú ý hơn cả. Đức cha Jean-Louis Bruguès, O.P. , nguyên tổng thư ký Bộ Giáo dục Công giáo, phân tích văn kiện của Công đồng và những vấn đề được đặt ra vào thời nay. 

3. Sau những suy tư mang tính cách tổng quát, chúng ta đi vào hai áp dụng cụ thể về thời gian và không gian. Làm thế nào nói về Thiên Chúa cho thời đại hôm nay? Đó là băn khoăn của cha Edward Schillebeeck (1914-2009). Vấn đề không chỉ là tìm một ngôn ngữ mới nhưng là một phương pháp thần học mới, và linh mục Nguyễn Đình Tân, O.F.M. cho thấy rằng cha Schillebeeck đã sử dụng nhiều phương pháp để nói về Thiên Chúa cho con người sống trong thế giới tục hóa, hoặc con người phải đương đầu với bao nhiêu đau khổ : thần học tiên nghiệm, thần học giải thích, thần học thực hành, tương quan liên đới. Nói cho cùng, những phương pháp mới mẻ nhằm nói lên chân lý căn bản: “Thiên Chúa luôn mới mẻ.” 

4. Linh mục Nguyễn Văn Nhứt, O.P. suy tư về việc rao giảng sứ điệp hòa giải trong Chúa Kitô cho văn hóa Việt Nam. Giảng thuyết có nghĩa là công bố sứ điệp của hy vọng cho một xã hội mang nhiều thương tích, gây ra bởi việc suy giảm ý thức về tính thánh thiêng của cuộc sống, ý thức lương tri về thiện và ác. 

5. Từ sau công đồng, thuật ngữ “mục vụ” đã trở thành quen thuộc trong Giáo hội, và được áp dụng cho một ngành chuyên biệt của thần học (thần học mục vụ) cũng như hoạt động của Giáo hội (hoạt động mục vụ). Hơn thế nữa, “mục vụ” còn được gắn với nhiều thực thế khác: trung tâm mục vụ, hội đồng mục vụ, tinh thần mục vụ, thực tập mục vụ, kinh nghiệm mục vụ. Thế nhưng: mục vụ là gì? Linh mục Phan Tấn Thành, O.P. tìm cách trả lời qua việc nghiên cứu việc áp dụng thuật ngữ này trong lịch sử Giáo hội, và những vấn đề được đặt ra cho “thần học mục vụ” (cũng gọi là “thần học thực hành”). 

6. Cách đây 30 năm, ngày 25 tháng Giêng năm 1983, đức thánh cha Gioan Phaolô II ban hành Bộ Giáo luật, như một hoa trái của Công đồng. Bộ Giáo luật có ý nghĩa gì đối với đời sống Giáo hội? Pháp luật có liên quan gì đến mục vụ không? Đức hồng y Julian Herranz, nguyên chủ tịch Hội đồng Văn bản Pháp lý, trả lời những câu hỏi ấy trong bài thuyết trình Giáo luật để làm chi? 

7. Trong Năm đức tin, học hỏi về “đặc ân đức tin” (privilegium fidei) trong giáo luật hẳn là rất thời sự: linh mục Nguyễn Trường Tam, O.P. trình bày những trường hợp áp dụng vào việc tiêu hủy giá thú, đặc biệt dựa trên văn kiện gần đây của bộ Giáo lý Đức tin 

8. Bộ Giáo luật đã được ban hành 30 năm. Từ đó đến nay đã có những sửa đổi gì không? Thời sự Thần học xin cung cấp vài tài liệu bổ sung cho bản văn pháp lý này: những luật mới, những sửa đổi, những giải thích. 

9. Kết thúc số báo về thông truyền đức tin là một bài điểm qua vài nét nổi bật của khóa họp Thượng Hội đồng Giám mục hồi tháng 10 năm ngoái về “Loan báo Tin Mừng mới mẻ để thông truyền đức tin Kitô giáo.” 
__TTHVĐM__

TRONG SỐ NÀY


Sandro Magister

Thứ Năm, 1 tháng 11, 2012

THỜI SỰ THẦN HỌC - SỐ 58 - THÁNG 11/2011

CHỦ ĐỀ : NĂM ĐỨC TIN

LỜI GIỚI THIỆU


Thưa quý vị,

Lời giới thiệu PDF
Trong niên học 2011–2012, Trung tâm Học vấn Đa Minh đã phát hành bốn số Thời sự Thần học: Số 54 (11/2011) – Những nguồn mạch thần học; Số 55 (2/2012) – Fides quaerens dialogum; Số 56 (5/2012) – Caritas quaerens intellectum; Số 57 (8/2012) – Ơn gọi linh mục và tu sĩ.

Kể từ số này, tờ báo thay đổi hình thức trình bày, nhưng vẫn giữ nguyên chủ trương, đó là góp phần đào tạo “thần học” cho các sinh viên, dựa theo những vấn đề “thời sự”. Trong niên học này, chúng tôi hy vọng sẽ đi theo bốn câu chuyện thời sự: 

Số 58 Năm đức tin. 
Số 59 Ba mươi năm ban hành Bộ Giáo luật (những vấn đề mục vụ). 
Số 60 Năm mươi năm thông điệp Pacem in terris (những vấn đề học thuyết xã hội). 
Số 61 Hai mươi năm thông điệp Veritatis splendor (những vấn đề luân lý).

Số báo này phát hành vào dịp khai mạc Năm đức tin, kỷ niệm 50 năm khai mạc công đồng Vaticano II và 20 năm ban hành Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo.

1. Bài mở đầu Đức tin trong thần học trình bày những khía cạnh khác nhau của đức tin, qua những bản văn Kinh Thánh, truyền thống Giáo hội, và những đề mục học hỏi trong các chuyên ngành thần học: thần học cơ bản, tín lý, luân lý, tâm linh. 

2. Dưới tựa đề Tin vào ai - Tin vào điều gì và Tin trong Tin Mừng Gioan, Linh mục Lê Minh Thông đào sâu một chủ đề trọng tâm của Tin Mừng thứ tư. 

3. Mối liên hệ giữa đức tin và các tín biểu đã được Sách Giáo lý Hội thánh đề cập ở các số 185-197. Lịch sử thành hình các tín biểu sẽ được phân tích trong bài viết Đức tin và tín biểu của Nữ tu Đinh Thị Sáng. 

4. Năm đức tin 2012 – 1013 gợi lại năm đức tin đã được đức Phaolô VI mở ra năm 1967 để kỷ niệm 1900 năm tuẫn đạo của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Chúng ta hãy ôn lại vài nét chính của biến cố ấy, được kết thúc với Kinh Tin kính của Dân Thiên Chúa được tuyên đọc ngày 30 tháng 6 năm 1968. 

5. Để kỷ niệm 20 năm ban hành Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, chúng ta hãy đọc lại bài thuyết trình của đức hồng y Joseph Ratzinger tại Hội nghị quốc tế về huấn giáo họp tại Rôma cách đây 10 năm, trong đó ngài cho thấy những đóng góp của tác phẩm cho sự tiến triển thần học, chẳng hạn về việc chú giải Kinh Thánh, quan điểm về bí tích, bản chất thần học luân lý Kitô giáo. 

6. “Đức tin và lý trí” là một vấn đề đã được gợi lên từ thời các thánh giáo phụ và vẫn còn được tiếp tục đến thời đại hôm nay với thông điệp Fides et ratio của đức thánh cha Gioan Phaolô II (14/9/1998). Linh mục Nguyễn Hữu Nghị trình bày mối tương quan ấy nơi thánh Tôma Aquinô, và kéo dài ra mối tương quan giữa thần học và triết học theo quan điểm của ông Jacques Maritain, một triết gia đã có ảnh hưởng không nhỏ trên tư tưởng của hai giáo hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II. 

7. Công đồng Vaticanô II đã mở ra cho thần học về giáo dân nhiều hướng đi mới. Nhân dịp Hội nghị các giám mục Á châu (FABC) sắp nhóm họp, giáo sư Nguyễn Văn Hải ghi nhận những thành quả của thần học giáo dân qua các văn kiện của cơ quan này trong vòng 40 năm qua, cũng như vạch ra những hướng đi trong tương lai.

Thưa quý vị, 

Cùng với việc ấn hành tạp chí dưới dạng in, hiện nay chúng tôi đã tạo trên mạng điện tử một blog Thời sự Thần học. Nội dung các số tạp chí đã ấn hành sẽ lần lượt được đưa lên blog này. Các bài viết được sắp xếp theo chủ đề và định dạng PDF cũng sẽ được đính kèm để tiện cho việc ghi chú tham chiếu. Mời quý vị tham quan http://tsthdm.blogspot.com. Hy vọng hình thức phổ biến Thời sự Thần học theo cách này mang lại cho quý vị nhiều lợi ích trong việc nghiên cứu thánh khoa. 

TTHVĐM

TRONG SỐ NÀY

Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

THỜI SỰ THẦN HỌC - SÔ 57, THÁNG 8/2012

CHỦ ĐỀ : ƠN GỌI LINH MỤC VÀ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

LỜI GIỚI THIỆU


Số báo này được phát hành để mừng 13 tu sĩ Đa Minh lãnh tác vụ linh mục (4/8/2012) và 15 tu sĩ tuyên khấn trọng thể (15/8/2012), trùng vào dịp kỷ niệm 20 năm ban hành tông huấn Pastores dabo vobis (25/3/1992) và 50 năm khai mạc công đồng Vaticanô II. Thật là một cơ hội quý báu để tìm hiểu sự tiến triển thần học về ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến trong 50 năm qua. 

Phần thứ nhất dành cho ơn gọi linh mục nói chung và ơn gọi linh mục tu sĩ nói riêng.

1. Mở đầu, cha Juan Esquerda Bifet sẽ đưa chúng ta rảo qua những khuôn mẫu đào tạo linh mục trong lịch sử Giáo hội.

2. Tiếp đến là một văn kiện của Hội đồng các bề trên cao cấp các Dòng nam của Hoa kỳ, khẳng định những nét đặc trưng của việc đào tạo các linh mục dòng tu: các học viện của các dòng có những nét khác biệt với các chủng viện. Thiết tưởng tài liệu này hữu ích cho các dòng tu ở Việt Nam sau khi Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa ban hành văn bản "Ðào tạo linh mục - Ðịnh hướng và Chỉ dẫn" (Ratio institutionis sacerdotalis & Ratio studiorum).

3. Linh đạo của linh mục giáo phận là gì? Cha Giuseppe Ferraro tìm câu trả lời độc đáo bằng cách phân tích kinh tiền tụng Thánh lễ truyền dầu.

4. Đâu là căn cước của một linh mục dòng Đa Minh? Đó là câu hỏi mà cha Thomas Rausch, một linh mục Dòng Tên đã tìm cách trả lời. Khi đối chiếu với các linh mục giáo phận, tác giả nhận thấy rằng các linh mục dòng Đa Minh và dòng Tên gặp nhau ở khá nhiều điểm, đặc biệt là tính cách ngôn sứ.

5. Vào ngày 7 tháng 10 sắp tới, nhân dịp khai mạc Thượng hội đồng giám mục thế giới bàn về việc loan báo Tin Mừng cách mới mẻ, đức thánh cha sẽ tôn phong hai vị tiến sĩ Hội thánh: thánh Juan de Avila linh mục (1500-1569) và thánh nữ Hildegard Bingen dòng Biển đức (1098-1179). Thánh Juan de Avila không những là một linh mục thánh thiện mà còn góp phần vào việc đào tạo linh mục bằng các tác phẩm và hoạt động. Chúng tôi hân hạnh giới thiệu cuộc đời và học thuyết của vị “tiến sĩ của thần học đời sống linh mục”.

6. Một chiếc cầu nối từ phần thứ nhất sang phần thứ hai là bài viết của linh mục Nguyễn Hữu Nghị, O.P. : “Giáo hội thánh thiện và vấn đề tội lỗi của các thành viên trong Giáo hội – Quan điểm của Jacques Maritain”.

Phần thứ hai, về đời sống thánh hiến, gồm hai bài:

7. Thần học về đời sống thánh hiến 50 năm qua: phân tích các văn kiện Tòa thánh đọc trong khung cảnh lịch sử.

8. Khai trương mục “Điểm sách” cho báo Thời sự thần học, linh mục Phạm Hoàng Dũng, OP. giới thiệu những sách báo về đời tu bằng tiếng Pháp. Tác giả hiện đang phụ trách thư viện của trụ sở trung ương của Dòng Đa Minh ở Rôma.

TRONG SỐ NÀY

Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

THỜI SỰ THẦN HỌC – SỐ 56, THÁNG 5/2012

CHỦ ĐỀ: CARITAS QUAERENS INTELLECTUM – BÁC ÁI TÌM KIẾM HIỂU BIẾT

LỜI GIỚI THIỆU


Thời sự thần học lần này được phát hành để mừng kỷ niệm 50 năm tu sĩ Martinô de Porres O.P. (1579-1639) được đức thánh cha Gioan XXIII phong hiển thánh, vào ngày 6 tháng 5 năm 1962.

Martinô sinh ngày 9/12/1579 tại Lima nước Pêru, con của ông Juan de Porres, một hiệp sĩ Tây ban nha, và bà Anna Velasquez một phụ nữ da đen được giải phóng. Năm lên 15 tuổi cậu xin vào tu viện Mân côi tại Lima, trong hàng ngũ “gia nhân” (donatus), vì luật thời ấy không cho phép nhận những con của người nô lệ vào Dòng; mãi đến 12 năm sau, anh mới được nhận khấn dòng trong hàng ngũ “trợ sĩ” (conversus). Vị thánh này được nổi tiếng vì những công tác bác ái dành cho những người nghèo, nhưng thiết tưởng không nên bỏ qua đời sống kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa bằng việc cầu nguyện và hoạ lại những đau khổ của Chúa Kitô trên thập giá.

Người qua đời ngày 3/11/1639 tại Lima, và được đức thánh cha Grêgôriô phong chân phước năm 1837. Tổng hội dòng Đa Minh năm 1938 đặt Người làm bổn mạng các anh em trợ sĩ. Năm 1966, các thợ hớt tóc của Italia nhận Người làm bổn mạng. Năm 1982, Người trở thành bổn mạng các nhân viên y tế của Pêru.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm phong thánh cho “vị thánh của lòng bác ái”, Thời sự Thần học muốn đóng góp vài suy tư chung quanh chủ đề CARITAS.

Danh từ Caritas (tương đương với charité tiếng Pháp, charity tiếng Anh) thường được dịch là “bác ái”. Tuy nhiên, trong nguyên gốc Latinh, caritas mang một nghĩa rộng hơn nhiều. Có ý kiến giải thích tầm nguyên của nó là carus (thân yêu, quý giá, đắt tiền), nhưng cũng có ý kiến cho rằng nguồn gốc của nó là charis trong tiếng Hy-lạp (ân huệ, quà tặng, duyên dáng), vì thế vào thời xưa người ta viết charitas. Dù sao, caritas đã được dùng để chuyển dịch danh từ agape của Tân ước, và áp dụng cho chính Thiên Chúa: Deus caritas est.

1. Để mở đầu, chúng ta đọc lại Bài giảng của chân phước Gioan XIII trong lễ tôn phong thánh Martinô, vào những tháng chuẩn bị khai mạc công đồng Vaticanô II: hai nhân đức nổi bật của vị thánh được nêu bật là: bác ái và khiêm nhường.

2. Bài kế tiếp trình bày những vấn đề thần học liên quan đến chủ đề caritas dựa theo hai thông điệp của đức thánh cha Bênêđictô XVI: Deus caritas est và Caritas in Veritate, đặc biệt qua việc phân tích những song luận: “eros - agape”; “caritas - veritas”; “caritas - iustitia”.

3. Bài thứ ba ôn lại lịch sử những hình thức hoạt động bác ái của Giáo hội trải qua thời đại, như là những sáng kiến của các Kitô hữu để đáp ứng những thách đố của mỗi thời đại trong việc thực thi đức mến, kể cả vào thời nay.

4. “Lựa chọn người nghèo” là bài viết của linh mục Gustavo Gutierrez, đồng hương của thánh Martinô, được coi là cha đẻ của Thần học giải phóng, với tác phẩm Teología de la liberación, perspectivas xuất bản tại Lima năm 1971. Khi lên 70 tuổi (sinh ngày 8/6/1928) cha xin gia nhập dòng Đa Minh: khấn đơn năm 2001 và khấn trọn đời năm 2004. Phục vụ người nghèo không chỉ là một đề tài cho công tác xã hội, nhưng nằm trong bản chất của việc làm môn đệ Đức Giêsu, và là một yếu tố cốt yếu của việc suy tư thần học cũng như của việc loan báo Tin mừng.

5. Thánh Martinô đã dành một mối tình yêu thương phục vụ các người bệnh. Phục vụ người bệnh là một phương thế để rao giảng Tin Mừng. Chăm sóc sức khoẻ và giảng thuyết là đề tài suy tư của Cha Nguyễn Lộc Thọ.

6. Trên phương diện lý thuyết, “Mục vụ sức khoẻ” sẽ giới thiệu những khía cạnh mới của lãnh vực này, chuyển từ chỗ chữa lành bệnh tật sang chỗ phát triển sức khoẻ. “Mục vụ sức khỏe” trở thành một ngành chuyên khoa của thần học được thiết lập tại Rôma đặt trụ sở tại Học viện Camillianum.

7. Đối với thần học cận đại, “Nước Thiên Chúa” được coi như mục tiêu của toàn thể hoạt động của Giáo hội, từ việc cầu nguyện đến việc rao giảng Tin mừng, từ công tác bác ái đến việc tranh đấu công lý. Thế nhưng, Nước Thiên Chúa (Vương quốc Thiên Chúa) là gì? Nữ tu Đinh Thị Sáng trình bày những cuộc tranh luận về đề tài này trong thế kỷ XX trong ba lãnh vực: Giáo hội học, thần học giải phóng, thần học các tôn giáo.

8. “Caritas politica” là một thuật ngữ được sử dụng trong các văn kiện Huấn quyền Xã hội khi nói đến việc tham gia của người tín hữu vào hoạt động chính trị. Theo Sách Tóm lược Học thuyết xã hội của Giáo hội (2004), tác giả của thuật ngữ là thánh Tôma Aquinô (xc. số 581, chú thích 1222). Không dừng lại ở từ ngữ, linh mục Nguyễn Hữu Nghị sẽ trình bày những nguyên tắc của nền nhân học chính trị dựa theo tư tưởng của vị Tiến sĩ thiên thần.

9. Sau cùng, chúng tôi xin giới thiệu một tài liệu mang tính “Thời sự thần học” đó là văn kiện mới của Uỷ Ban Thần học quốc tế với tựa đề Thần học ngày nay được công bố vào ngày 8 tháng 3 vừa qua.

TRONG SỐ NÀY

Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012

THỜI SỰ THẦN HỌC – SỐ 55, THÁNG 01/2012

CHỦ ĐỀ: FIDES QUAERENS DIALOGUM - ĐỨC TIN TÌM KIẾM ĐỐI THOẠI

LỜI GIỚI THIỆU


Thời sự thần học lần này được phát hành nhân dịp mừng lễ thánh Tôma Aquinô, bổn mạng của Trung Tâm Học vấn. Chúng tôi muốn lợi dụng cơ hội để trình bày tư tưởng của ngài, đặc biệt trong lãnh vực đối thoại.

I. Thánh Tôma Aquino


1. Mở đầu là ba bài Giáo huấn của đức thánh cha Bênêđictô XVI giới thiệu thánh Tôma trong loạt những bài huấn dụ ngày thứ tư hằng tuần dành cho các nhà thần học thời Trung cổ. Bài thứ nhất (ngày 2/6/2010) lượt qua tiểu sử của vị Tiến sĩ thiên thần. Bài thứ hai (ngày 16/6) đi sâu vào một điểm nổi bật trong tư tưởng của ngài, đó là quan điểm về tương quan giữa đức tin và lý trí. Vấn đề này được phân tích không những trong bối cảnh của thế kỷ XIII nhưng còn trong bối cảnh của thời đại hôm nay, cách riêng là trong lãnh vực luân lý. Bài thứ ba (ngày 23/6) rảo qua nội dung tác phẩm quan trọng của ngài, đó là bộ “Tổng luận thần học”.

2. Trực giác căn bản trong học thuyết thánh Tôma, theo linh mục Nguyễn Trọng Viễn, là tìm cách “hoà hợp” giữa những thực tại xem ra đối chọi. Linh mục Nguyễn Hữu Nghị trình bày một khía cạnh cụ thể, đó là “Tương quan giữa tự nhiên (nature) và ân sủng (grâce)”. “Luật tự nhiên (loi naturelle) và đối thoại văn hoa” là đề tài nghiên cứu linh mục Phan Tấn Thành dựa theo một văn kiện của Uỷ Ban Thần học Quốc tế năm 2008. Hướng đi “đối thoại” được tiếp tục đào sâu trong loạt bài kế tiếp, áp dụng vào tư tưởng Đông phương.

II. Đối thoại


Chủ đề “đối thoại” đã được chọn làm “chiến lược” của Liên hiệp các Hội đồng Giám mục Á châu (FABC): đối thoại với các nền văn hóa, đối thoại với các tôn giáo, đối thoại với những người nghèo. Vào ngày 19-23/11/2012, Đại Hội lần thứ X của Liên hiệp sẽ được tổ chức tại Việt Nam, trùng vào kỷ niệm 40 năm Đức Phaolô VI phê chuẩn Quy chế của Liên hiệp (16/11/1972). Phương pháp thần học của FABC được phân tích trong bài nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Văn Hải.

Những bài kế tiếp tìm hiểu vài nỗ lực đối thoại giữa Kitô giáo với tư tưởng Đông phương: “Thánh” - “Đạo” - “Lời” là những từ ngữ khá quen thuộc đối với chúng ta; tuy nhiên trong tư tưởng Á Đông, ba từ này không những ám chỉ các hiện tượng tôn giáo, nhưng còn bao hàm Thực Tại tuyệt đối và có thể áp dụng cho chính Đức Kitô và hơn thế nữa cho Thiên Chúa Ba ngôi.

- Jonathan Fan Yun Ka đề nghị trình bày Đức Giêsu như “vị Thánh chịu đóng đinh và phục sinh”.

- Trần ngọc Thiện cho thấy rằng từ Đạo trong Nho học mang ít nhất là ba nghĩa: a) quy tắc luân lý; b) lời giảng dạy chân lý; c) nguyên lý phát sinh muôn loài. Khuôn khổ bài viết không cho phép đi sâu hơn vào việc đã đối chiếu với Logos, chẳng hạn như Christ the Eternal Tao (của Hieromonk Damascene, Valaam Books, 1999).

- Từ cái nhìn của Thiền, Shigeto Oshida phân tích những khía cạnh của Lời: Lời ý tưởng (Word-Idea), Lời biến cố (Word-Event), Lời gặp gỡ và Lời Thiên Chúa (Word-Encounter, Word God). Những ý nghĩa này có liên quan không nhỏ khi bàn đến việc Loan báo Tin Mừng và Hội nhập văn hóa.

Sau cùng, cũng nằm trong chiều hướng đối thoại và trao đổi giữa các Học viện và Chủng viện, mục “Giới thiệu sách” lần này được dành cho các giáo trình Triết học và Thần học đang được sử dụng tại Trung Tâm Học vấn.

Đây là số báo đầu tiên của năm 2012. Nhiều biến cố được dự phóng cho năm nay: ngoài Đại Hội FABC vừa kể, chúng ta không quên nhắc đến khóa họp Thượng hội đồng Giám mục thế giới vào tháng 10, bàn về việc “Loan báo Tin Mừng cách mới mẻ” trùng với kỷ niệm 50 năm khai mạc công đồng Vaticanô II (11/10/1962), đồng thời cũng mở đầu cho Năm Đức Tin. Hy vọng đó là những chủ đề gợi hứng cho những sáng tác của quý giáo sư và độc giả dành cho Thời sự Thần học.

TRONG SỐ NÀY

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

THỜI SỰ THẦN HỌC – SỐ 54, THÁNG 11/2011

CHỦ ĐỀ: CÁC NGUỒN MẠCH THẦN HỌC

LỜI GIỚI THIỆU ✍


Kể từ số này, Thời sự thần học trở thành tờ báo của Trung Tâm Học Vấn Đa Minh. Ước mong rằng đây sẽ là cơ quan góp phần vào việc đào tạo cho các sinh viên cũng như diễn đàn để các giáo sư công bố những công trình nghiên cứu của mình.

Chúng tôi hy vọng mỗi năm sẽ phát hành bốn số. Đây là số đầu tiên của niên khóa 2011-12 dành cho “Các nguồn mạch thần học”. Số thứ hai sẽ phát hành vào dịp lễ thánh Tôma Aquinô, với chủ đề “Thần học đối thoại”. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm phong thánh cho tu sĩ Martinô de Porres (6/5/1962), số thứ ba sẽ đề cập đến “Bác ái và những vấn đề xã hội”. Số thứ bốn phát hành vào dịp cuối niên khoá, trùng với mùa thụ phong linh mục, sẽ bàn về “Những tác vụ trong Hội thánh”.

Đề tài của số này được gợi lên tác phẩm De locis theologicis của cha Melchior Cano (1509-1560). Sau khi trình bày những ý nghĩa khác nhau của thuật ngữ này, chúng tôi xin điểm qua những “nguồn mạch” cổ và kim của thần học:
  • Kinh thánh. Linh mục Giuse Lê Minh Thông giới thiệu một phương pháp đọc Kinh Thánh. Chúng tôi cũng xin giới thiệu những tác phẩm về Kinh thánh do anh em Đa Minh đã biên soạn hoặc dịch thuật.
  • Huấn quyền. Từ sau công đồng Vaticanô II, một hình thức mới là các văn kiện của “Thượng hội đồng giám mục”.
  • Trong số những tiếng nói có thẩm quyền của thần học thời nay, chúng ta không thể bỏ qua các văn kiện của “Uỷ ban Thần học quốc tế”. Đặc biệt, chúng tôi muốn giới thiệu “Thần học của Joseph Ratzinger”, qua việc khảo sát các “nguồn mạch thần học” của ngài.

Những bài còn lại mang tính cách “thời sự thần học”:
  • Những biến chuyển về thần học Ba Ngôi từ sau công đồng Vaticanô II;
  • Những mô hình Giáo hội học của Liên hiệp các Hội đồng Giám mục Á châu (FABC);
  • Bài viết về thần học Tử đạo theo giáo huấn đức Gioan Phaolô II muốn đánh dấu kỷ niệm bốn thánh tử đạo Hải dương (tháng 11 năm 1861), cũng gần kề lễ kính toàn thể các thánh tử đạo Việt Nam (24/11).

TRONG SỐ NÀY