Hiển thị các bài đăng có nhãn Thần học chính trị. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thần học chính trị. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 1 tháng 12, 2021

KINH THÁNH VỚI CHÍNH TRỊ

Thời sự Thần học – Số 87, tháng 2/2020, tr. 61-97.

_Giorgio Jossa_

I. Chính trị trong Cựu Ước. 1) Những diễn biến lịch sử của Israel. 2) Các định chế chính trị. 3) Các khuôn mẫu chính trị. 4) Các ngôn sứ với chính trị. 5) Sự phân biệt giữa tôn giáo và chính trị.

II. Chính trị trong Tân Ước. 1) Tình hình chính trị vào thời Đức Giêsu. 2) Hoạt động của Đức Giêsu. 3) Câu chuyện nộp thuế. 4) Thánh Phaolô với chính trị. 5) Những bản văn khác của Tân Ước về chính trị. 6) Tân Ước có quan điểm chính trị nào hay không?

Nguồn: “Politica”, trong: Nuovo Dizionario di Teologia Biblica, Edizioni Paoline, Cinisello Balsamo 1988, p.1171-1189. Tác giả là giáo sư khoa lịch sử Kitô giáo cổ đại, đại học Napoli.


I. Chính trị trong Cựu Ước

1. Những diễn biến lịch sử của Israel

Khỏi nói ai cũng biết, trong một bài báo, không thể nào trình bày rốt ráo về chính trị trong Cựu Ước và Tân Ước, mà chỉ có thể giới hạn vào một vài khía cạnh xem ra nổi bật nhất liên quan đến chủ đề này. Chúng tôi xin chia làm hai phần: Cựu Ước và Tân Ước, và bắt đầu với việc mô tả những nét căn bản của lịch sử Israel cho đến thời Đức Giêsu.

Lịch sử này có lẽ khởi đầu từ cuộc di dân của một bộ lạc nguồn gốc semit, dưới sự hướng dẫn của ông Abraham, khởi đi từ các miền đồng khô cỏ cháy bên Syria chuyển sang vùng Canaan phì nhiêu hơn. Chúng ta không biết những động lực kinh tế cụ thể cũng như những hoàn cảnh lịch sử của cuộc di cư này, nhưng có lẽ nó liên quan đến một cuộc cải cách tôn giáo trong nội bộ của bộ lạc, đặt nền cho sự phát triển của niềm tin độc thần của Israel trong tương lai. Thời kỳ các tổ phụ, tuy không thể nào dựng lại các chi tiết lịch sử, là giai đoạn hình thành tiệm tiến của niềm tin vào Thiên Chúa của ông Abraham, của ông Isaac và của ông Giacóp. Giai đoạn này kết thúc với cuộc di dân của một vài bộ tộc sang Ai-cập, mà có lẽ có thể móc nối với cuộc di chuyển của nhiều dân tộc sang miền châu thổ sông Nile vào hồi thế kỷ XVIII trước CN, hoặc là với những biến cố có lý do tương tự vào hồi thế kỷ XIV trước CN.

Sau một thời gian khó xác định được là bao lâu, dân Do Thái, lúc đầu được tiếp đón nồng hậu bên Ai-cập nhưng về sau lại rơi vào tình trạng bán-nô-lệ, đã diễn ra cuộc xuất hành khỏi Ai-cập, dưới sự lãnh đạo của ông Môsê. Cuộc ra đi này, xảy ra vào thế kỷ XIII trước CN, và cõ lẽ gắn với một vài hoàn cảnh lịch sử mà ta không biết, có liên hệ với một cảm nghiệm tôn giáo sâu xa, với cuộc mặc khải của Thiên Chúa các tổ phụ, mà từ nay họ gọi là YHWH. Trong thời kỳ xuất hành (gắn với truyền thống kéo dài 40 năm) trên bán đảo Sinai, các bộ tộc Israel đã siết chặt sự đoàn kết bằng một mối dây mang tính tôn giáo, được diễn tả qua giao ước giữa YHWH với dân tộc mà luật ông Môsê là hiến chương căn bản.

Tiếp theo cuộc xuất hành là việc định cư tại Canaan. Thật khó xác quyết đó là kết quả của một cuộc chinh phục quân sự nhanh chóng hay là thành quả của một tiến trình xâm nhập văn hóa lâu dài. Dù sao, điều quan trọng là một khi đã định cư tại Canaan, Israel xuất hiện như một liên bang các bộ tộc mà dây liên kết chính dựa trên một niềm tin chung vào YHWH. Tất cả giai đoạn mang tên là các Thủ lãnh (khoảng các thế kỷ XII và XI trước CN) được đánh dấu bởi việc định cư của các bộ tộc du mục và những liên lạc với các dân địa phương, có khi an bình có khi chiến tranh. Đời sống tôn giáo cũng bắt đầu trải qua những căng thẳng giữa một bên là muốn giống với các dân tộc láng giềng và một bên là lời mời gọi hãy bảo tồn căn tính của mình, và điều này sẽ được nhấn mạnh hơn nữa ở các giai đoạn kế tiếp.

Với việc thiết lập chế độ quân chủ (vào khoảng năm 1000 trước CN), lần đầu tiên Israel trở thành một quốc gia. Các vua Saul, Đavít, Salômôn có thể được coi như những nhân vật đã gây ra cuộc biến đổi này (tuy xem ra đã được lý-tưởng-hóa bởi hậu thế), đặt Israel ngang với các vương quốc láng giềng, và được thiết kế với các thể chế cơ bản: một quân đội thường trực, một thủ đô tại Giêrusalem, một bộ máy hành chánh hữu hiệu. Tổ chức liên minh các bộ tộc dần dần nhường chỗ cho việc trung ương tập quyền. Trong tiến trình tập trung quyền bính này, việc xây dựng đền thờ tại Giêrusalem giữ một vai trò then chốt, bởi vì nó thay thế các đền thờ địa phương bằng một trung tâm phụng tự duy nhất cho tất cả các bộ tộc, nơi cử hành việc tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, Đấng không chấp nhận bất cứ thần linh nào khác.

Tuy nhiên thời hoàng kim của chế độ quân chủ không dài lâu. Sau khi vua Salômôn băng hà, vương quốc bị phân đôi: Israel ở phương bắc, Giuđa ở phương nam. Cả hai quốc gia đều phải đương đầu với chính sách bành trướng của các đế chế Assur và Babylon. Chẳng bao lâu Israel và Giuđa lần lượt rơi vào tay quân đội ngoại quốc. Những thế kỷ IX, VIII và VII trước CN cũng là thời kỳ các ngôn sứ: họ đích thân tham gia vào những biến cố chính trị của cả hai nước, và góp phần quyết liệt vào việc khẳng định tín ngưỡng độc thần. Giai đoạn này kết thúc vào năm 585 với thảm họa là thủ đô Giêrusalem bị hoàng đế Nabucodonosor chinh phục, và phần lớn dân cư nước Giuđa bị phát lưu sang Babylon.

Năm 538, với sắc chỉ giải phóng của hoàng đế Kyrô, bắt đầu cuộc hồi hương của dân lưu đày về Giêrusalem, và mở đầu tiến trình tổ chức đạo Do Thái. Tuy những người Híp-ri không được hưởng độc lập hoàn toàn, nhưng họ cũng được chính quyền đô hộ của nước Ba-tư cho phép tái thiết xứ sở về mặt chính trị và xã hội, nhất là được phép xây lại đền thờ Giêrusalem, biểu trưng của sự thống nhất dân tộc. Những cuộc cải cách pháp luật của các ông Nêhêmia và Esdra đã có công lớn trong tiến trình cam go này. Mặc dù vẫn sống dưới sự đô hộ ngoại bang, nhưng dân Israel vẫn được hưởng một nền tự trị tương đối, mang hình thức thần quyền dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư tế tại đền thờ và “bờ rào” của luật Môsê.

Vào đầu thế kỷ II, nghĩa là dưới sự đô hộ của đế chế Hy-lạp của những người kế vị hoàng đế Alêxandrô, lịch sử Israel bước sang giai đoạn mới. Chính sách Hy-lạp-hóa của hoàng triều Seleucida, với sự tán thành của giới quý tộc bản địa vào thời vua Antiôkhô IV Epiphanê đã phá vỡ sự quân bình giữa chế độ thần quyền và nhà nước đô hộ. Một cuộc chiến tranh giải phóng đã bùng dậy, được kể lại trong sách các anh em nhà Macabê, và dẫn đến việc thiết lập chế độ quân chủ của dòng họ Asmonê. Dân Do Thái được hưởng giấc mộng tự do và độc lập một lần cuối cùng. Tuy rằng dòng họ Asmonê không thể tự hào là hậu duệ của nhà Đavít, nhưng vương triều cũng được tái lập. Tuy nhiên, chế độ này không kéo dài, bởi vì không được đâm rễ trong lòng dân tộc và chịu xâu xé bởi những cuộc tranh chấp gia đình. Theo lời cầu cứu của chính dòng họ Asmonê, vào năm 63 trước CN, tướng Pompê của quân đội Rôma đã tiến vào thủ đô Giêrusalem, và chấm dứt vĩnh viễn nền độc lập của quốc gia này.

2. Các định chế chính trị

Những nét sơ lược về lịch sử Israel cho thấy một điều là dân tộc này không lẫy lừng về công trình chính trị mà cũng chẳng nổi bật về các định chế chính trị. Người Híp-ri không có những hình thức và văn hóa của các nền cộng hòa như bên Hy-lạp hoặc của các đế chế Assur và Babylon. Vào lúc ban sơ, và trải qua một thời gian dài, họ chưa được tổ chức thành quốc gia. Đến lúc định cư ở Canaan, họ chỉ là một liên minh mười hai bộ tộc, tuy vẫn ý thức về những mối dây liên kết, đặc biệt trên lãnh vực tôn giáo, nhưng họ chưa có cơ quan lãnh đạo có quyền lực chính trị. Tình hình thay đổi nhanh chóng với việc thiết lập nền quân chủ dưới thời ông Saul. Hình thức liên minh trở thành quốc gia, và bắt chước các vương quốc láng giềng, họ có quân đội thường trực và chính quyền trung ương. Quốc gia này được củng cố và khuếch trương dưới thời các vua Đavít và Salômôn, với một dự án theo kiểu Ai-cập, tăng cường thương mại và phát triển văn hóa. Trải qua nhiều thế kỷ, hình thức này được duy trì bất chấp cuộc phân ly giữa phương bắc (Israel) và phương nam (Giuđa). Dù vậy chế độ quân chủ không hề có một hình thái cố định vững bền. Hình thái của vua Đavít và Salômôn thì khác với vua Saul khi ý thức thống nhất còn cao, và mầm mống chia rẽ dần dần nhen nhúm cho đến khi tách ra thành hai quốc gia sau khi vua Salômôn băng hà. Có lẽ hai triều đại của vua Đavít và Salômon đã được hậu thế lý-tưởng-hóa, chứ thực sự chỉ là một dấu ngoặc giữa tổ chức liên minh các bộ tộc với chế độ thần quyền được thiết lập sau thời lưu đày. Thật vậy, sự sụp đổ của Giêrusalem đã đánh dấu việc kết liễu của các định chế chính trị của Israel. Từ đó về sau, nước Giuđa chỉ còn là chư hầu của các đế chế Babilon, Ba-tư, Tolema và Seleucid. Nó không còn là một quốc gia nữa, nhưng trong khuôn khổ tự trị tôn giáo và văn hóa mà các đế chế cho phép, nó chỉ là một cộng đồng tôn giáo, được điều hành bởi luật Môsê dưới sự lãnh đạo của các tư tế. Nói cách khác, đó là chế độ thần quyền.

Do đó, không có một quan điểm duy nhất của Israel về quốc gia. Liên minh mười hai bộ tộc, chế độ quân chủ của các vua Saul, Đavít, Salômôn, các vương quốc Israel và Giuđa, tổ chức cộng đồng sau thời lưu đày tạo ra nhiều hình thái chính thái khác nhau. Thậm chí có thể nói được rằng, Israel chưa bao giờ có một quan niệm về quốc gia. Liên minh các bộ tộc cũng như tổ chức sau thời lưu đày không tạo ra một quốc gia. Đành rằng chế độ quân chủ là một hình thái quốc gia nhưng khuôn mẫu này đã gây ra nhiều phản ứng trái ngược. Cựu Ước có một truyền thống ủng hộ chế độ quân chủ ở 1Sm 9,1-10 và những đoạn văn đề cao vua Đavít, từ lời sấm của ngôn sứ Nathan (2Sm 7,8-16) cho tới các bản văn nói đến một vị Mêsia là vua, cũng như các thánh vịnh và ngôn sứ Isaia. Tuy nhiên, Cựu Ước cũng ghi nhận một truyền thống chống đối chế độ quân chủ nơi vài ngôn sứ như các ông Hôsêa, Edêkiel, và những đoạn văn lên án trong sách Các Vua.

Nói cho cùng, đàng sau các chi tiết ấy có một lý do sâu xa, đó là quan niệm thần quyền, theo đó Israel là dân của Thiên Chúa, và ngoài Người ra không còn vị thống lãnh nào khác nữa. Như lời tuyên xưng của sách Đệ-nhị-luật 6,4, nòng cốt của niềm tin cũng như của các phong trào chính trị, “YHWH là Thiên Chúa độc nhất, và không còn Chúa nào khác”. Đành rằng công thức tín ngưỡng độc thần của Israel là kết quả của một lịch sử lâu dài, và chỉ kết thúc vào thời quân chủ, nhưng ý thức về mối dây tôn giáo ràng buộc dân tộc đã có từ lâu đời. Thật vậy, trước khi là một cộng đồng chính trị, Israel đã và vẫn là một cộng đồng tôn giáo. Chính tôn giáo đã duy trì sự đoàn kết giữa các bộ tộc định cư tại đất Canaan, cũng như tôn giáo đã gắn kết những người lưu đày từ Babylon trở về Giêrusalem. Cũng chính tôn giáo là yếu tố cấu thành sự thống nhất vào thời quân chủ, bất chấp sự chia rẽ thành hai vương quốc. Đó là viễn cảnh để phán đoán các hình thái tổ chức chính trị dựa trên cấp độ trung thành với giao ước ký kết giữa YHWH với dân của Người. Vì thế, quốc gia chỉ là một yếu tố thứ yếu mà Israel có thể bỏ qua, và trên thực tế đã bỏ qua trong một quá trình lịch sử lâu dài. Nói tóm lại, chính trị không có một sự tự lập thực sự, nhưng nó cần phải được xét đoán dựa theo viễn cảnh tôn giáo. Ít là kể từ giai đoạn quân chủ trở đi, tiêu chuẩn xét đoán là các ý tưởng nền tảng của niềm tin Israel, tóm lại trong các ý tưởng: dân tộc, giải thoát, lời hứa.

3. Những khuôn mẫu chính trị

Dựa theo các bản văn Cựu Ước, yếu tố căn bản về quan niệm chính trị của Israel cũng như về quan niệm lịch sử tiên vàn là ý thức rằng mình là một dân tộc, và là dân tộc của Thiên Chúa. Israel không chỉ là một dân tộc như bao dân tộc khác, nhưng là một dân tộc khác với mọi dân do mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa. Thực vậy, giữa mọi dân trên địa cầu – và tất cả đều đặt dưới quyền cai trị của Thiên Chúa – YHWH đã chọn lựa một dân riêng ‘am segullah mikkol-ha-‘ammin (Xh 19,5; Đnl 14,2): “một dân riêng trong tất cả các dân tộc”. Ý thức về sự khác biệt so với các dân tộc khác do mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, đã gặp thấy trong toàn bộ Cựu Ước, và được diễn tả thành một từ ngữ chuyên môn khi được dịch sang tiếng Hy-lạp, khi mà Israel được định nghĩa là laos còn các dân khác thì được gọi là éthné (thí dụ những đoạn trích dẫn trên đây, được dịch sang tiếng Hy-lạp là laós perioúsios apó pántón tón ethnón). Laós được phân biệt với các éthné bởi vì là laós toú theoú, dân thuộc về Thiên Chúa.

Ý thức này được nảy sinh trong lịch sử, hoặc ít là được truyền thống gắn liền với cảm nghiệm về cuộc giải phóng khỏi cảnh nô lệ bên Ai-cập. Hành động quyền lực, qua đó Thiên Chúa “giang cánh tay uy quyền” (Xh 7,5; Đnl 4,34) để giải thoát Israel khỏi ách nô lệ, tạo ra ý thức rằng Israel là một dân tộc và là một dân tộc của Thiên Chúa. Theo truyền thống ấy, cội nguồn của ý thức lịch sử (cũng như ý thức chính trị) của Israel không phải là một công cuộc của loài người nhưng là chính Thiên Chúa ra tay hành động. Nói cách cụ thể hơn, “khởi nguyên của lịch sử dân Israel là sự giải thoát khỏi cảnh nô lệ ngoại bang, được coi như là một hành động của Thiên Chúa, nhờ vậy mà dân tộc được hình thành” (Strathmann, laós, 107). Vì vậy, ý thức về lịch sử và chính trị của Israel gắn chặt với việc thuộc về Thiên Chúa và với sự tự do khỏi ngoại bang.

Mặt khác, ý thức này cũng không thể tách rời khỏi mặc khải ở núi Sinai. Theo truyền thống, qua một giao ước ký kết với YWHW, Israel đã nhận được lề luật, và do đó, một văn kiện pháp lý cấu tạo nên dân Thiên Chúa. Khái niệm “giao ước” (berit) cũng là cơ bản để hiểu được ý thức chính trị của Israel. Chỉ khi nào trung thành với giao ước đã ký với Thiên Chúa, chỉ khi nào tuân hành lề luật thì Israel mới thực sự là dân của Thiên Chúa. Như đã tuyên bố trong đoạn văn Xuất hành trưng dẫn trên đây, chỉ khi nào “các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta” (Xh 19,5). Lòng trung tín của Thiên Chúa đối với dân được liên kết với lòng trung thành của dân đối với Thiên Chúa. Nhờ việc tuân giữ các giới răn mà mối tương quan đặc biệt giữa Israel với Thiên Chúa được thực hiện, tức là thực tại lịch sử và chính trị của Israel.

Thực tại lịch sử và chính trị này không được hoàn thành và sẽ chẳng bao giờ được hoàn thành, nhưng nó sẽ được thành tựu vĩnh viễn trong một tương lai cánh chung. Bất chấp những bất trung của dân, Thiên Chúa sẽ không bỏ họ, nhưng sẽ thực hiện một kỷ nguyên hòa bình và hạnh phúc cho họ. Ân huệ lề luật đi kèm với một lời hứa. Và Thiên Chúa sẽ không bao giờ lỗi lời hứa. Vào lúc cùng tận thời gian, Israel sẽ được hưởng hạnh phúc hoàn hảo với Thiên Chúa của mình trong một vương quốc của hòa bình và công lý do Đấng Thiên Sai mang đến, nghĩa là một vương quốc mà Israel sẽ mãi mãi được tự do khỏi áp bức của ngoại bang, và hòa bình với công bằng xã hội sẽ ngự trị. Đó là thực tại cánh chung vĩnh viễn mà Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia, thuộc dòng tộc Đavít, sẽ thực hiện.

Chúng ta thấy nổi bật vài đặc điểm về quan niệm chính trị của Israel. Trước hết là nền tảng tôn giáo của ý thức lịch sử của Israel. Không như các dân tộc khác, mối dây liên kết những người Híp-ri với nhau và tạo nên một dân tộc không tùy thuộc vào bản chất văn hóa, xã hội hoặc chính trị, nhưng là tôn giáo. Niềm tin vào YWHW là yếu tố cấu thành sự thống nhất của Israel. Vì thế, trước khi là một cộng đồng chính trị, Israel là một cộng đồng tôn giáo. Thế nhưng chính niềm tin ấy đòi hỏi một vài đường hướng hành xử và từ đó vạch ra những khuôn mẫu chính trị và xã hội. Thiên Chúa của Kinh Thánh, Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacóp đòi hỏi lòng trung tín tuyệt đối của dân tộc. Và lòng trung thành này không giới hạn vào các hình thức phụng tự, nhưng còn đòi hỏi dứt khoát phải thuộc về YHWH và thi hành nghiêm túc ý muốn của Người. Tôn giáo của Israel là tôn giáo của lề luật. Vai trò của lề luật là không ngừng nhắc nhở người Híp-ri lòng trung tín với những cam kết với Thiên Chúa trên núi Sinai: đó là từ bỏ các thần ngoại bang, nhìn nhận một Thiên Chúa duy nhất, tôn trọng giá trị mạng sống con người. Trên bình diện chính trị, điều này có nghĩa là khước từ thỏa hiệp với các nền văn minh ngoại lai; còn trên bình diện xã hội, nó đòi hỏi việc thực hành công bằng với người dân. Đó là những khuôn mẫu chính trị mà Israel có nghĩa vụ thi hành; một lần nữa, ta thấy rằng các khuôn mẫu tôn giáo trở thành chuẩn mực cho tất cả các khuôn mẫu chính trị.

4. Các ngôn sứ và chính trị

Để hiểu vai trò và tầm quan trọng của các ngôn sứ, cần phải đặt trong mối tương quan với các khuôn mẫu tôn giáo vừa nói, nghĩa là tổng thể các giá trị và niềm tin của truyền thống. Đối với người đương thời, các ngôn sứ nhiều khi tỏ ra là những con người quấy rối, và thời nay cũng thường coi họ như những nhà cách mạng. Thực ra, sứ điệp của họ mang tính chất tôn giáo, đến nỗi nhiều lần xem ra hung bạo dưới mặt văn hóa và phản động dưới mặt chính trị; chẳng hạn như khi ông Samuel trách vua Saul vì đã không thi hành tục tru diệt (1Sm 15), hoặc khi ông Gát chống lại cuộc kiểm tra dân số của vua Đavít vì trái ngược với tôn giáo (2Sm 24,10tt). Có lẽ cần phải phân biệt giữa các ngôn sứ của các thế kỷ IX với các ngôn sứ thuộc các thế kỷ VIII và VII trước CN, giữa các ngôn sứ của vương quốc phía bắc với những người thuộc vương quốc phía nam, giữa Elia và Elisa và Amos và Hôsê, và những người ấy với Isaia và Giêrêmia. Dĩ nhiên, còn nhiều khác biệt nữa giữa các ngôn sứ với nhau.

Dù vậy có thể nói đến vài khía cạnh chung cho tất cả các ngôn sứ. Các ngôn sứ không phải là là những tiên tri, đoán được tương lai, tuy đôi khi có người đã được phú ban vài khả năng đặc biệt như thế, nhưng các ngôn sứ là những người dấn thân sâu xa vào các biến chuyển lịch sử. Họ rất gắn bó với tình hình chính trị đương thời. Các ngôn sứ thời đầu (Nathan, Elia, Elisa) đã can thiệp vào những sự kiện lịch sử: các tạp vụ khổ sai của vua Salômôn, cái chết của Urigia, đền thờ Baal hoặc vụ ám sát Nabot. Nhất là họ lên tiếng phản đối sự lạm quyền của nhà vua. Đối lại, các ngôn sứ sau này (Amos, Hôsê, Isaia, Giêrêmia) lại tham gia vào hoạn nạn quốc gia, trước là thời đế quốc Assur, sau là thời đế quốc Babylon. Họ phải lên tiếng bày tỏ lập trường trước những lựa chọn của chính trị quốc gia và những động lực ẩn kín đàng sau. Chính trong những tình huống cụ thể của lịch sử mà họ đã can thiệp để bảo vệ công lý. Và cũng chính trong những tình huống ấy mà các ngôn sứ đã phát biểu những lập trường chính trị khác biệt và có thể gây tranh cãi. Một vài người đã tỏ ra một trực giác chính trị nhạy bén, với tầm nhìn sáng suốt mà người đương thời không nhận ra; trái lại, có những vị cho thấy khả năng chính trị rất hạn chế, kém hơn các đối thủ của mình. Nhưng kể cả trong trường hợp như vậy, hoặc chính vì vậy mà ta thấy rõ rệt hơn giá trị của sứ điệp các ngôn sứ.

Ngôn sứ không tranh biện trên bình diện chính trị, không bình luận các biện pháp chính trị, không đề ra những giải pháp chính trị. Quan điểm của ông mang tính tôn giáo thuần túy: quyền lợi của YHWH và lòng trung tín của dân. Vì lý do ấy, kế hoạch của ông không muốn chịu giới hạn vào một khuôn mẫu chính trị thích hợp hơn kém với tình trạng nhất thời, nhưng chứa đựng một phán quyết triệt để trên tất cả mọi khuôn mẫu chính trị dưới ánh sáng niềm tin của Israel. Thực vậy, những tai họa của Israel không tùy thuộc vào những tính toán sai lầm về chính trị, nhưng bởi vì không tuân theo ý Chúa. Vì thế, để vượt lên những thảm họa này, không thể nào chỉ dựa vào những biện pháp chính trị, nhờ thủ thuật chính trị, nhưng bằng cách trở về lòng trung tín với YHWH. Các ngôn sứ mời gọi nhà vua và nhân dân không phải là biết cân nhắc tình hình cách sáng suốt, nhưng đơn giản là hoán cải.

Chẳng hạn như khi ông Amos tiên báo sự kết liễu của vương quốc Israel, chắc là ông đã nhận thấy, cũng như bao nhiêu người khác, sự đe dọa của thế lực đế quốc Assur. Thực vậy, chẳng cần một mặc khải đặc biệt hoặc một trực giác chính trị nào để nói rằng ông thấy một đám mây của thất trận và phát lưu đang phủ vây Israel. Chỉ cần nhìn sang các nước láng giềng thì cũng đoán được số phận sẽ dành cho Israel. Tuy nhiên, đối với ngôn sứ, đó không phải là cội rễ sâu xa nhất của thảm họa. Nếu dân tộc Israel bị diệt vong, thì đó là do tội lỗi của mình chứ không phải do sức mạnh của quân địch. Và đối với ông, cái tội thâu tóm những tội lỗi khác là bất công xã hội, kêu gào sự báo đáp lên Thiên Chúa (Am 5,10-12; 8,4-6).

Khi ông Hôsê tiên báo Israel sẽ bị phát lưu ra nước ngoài, thì không phải là ông dựa trên những tính toán chính trị thực tế nhưng vì ông thâm tín rằng, nhân dân đã phản bội Thiên Chúa. Ông trách móc các nhà lãnh đạo vì những mưu tính đi tìm kiếm liên minh với các nước mạnh; ông xác tín rằng Israel chỉ cần tín thác vào một mình Thiên Chúa mà thôi: “Ephraim chung đụng với chư dân, Ephraim như chiếc bánh nướng cháy một bên. Ngoại bang ngốn hết sức lực của nó mà nó cũng chẳng hay. Ngay cả khi tóc nó bạc màu, nó nào đâu có biết. Israel kiêu ngạo, tội nó tố cáo nó, nhưng nó đâu chịu trở về với YHWH Thiên Chúa của chúng; sự thế đã rành rành như vậy, mà nó chẳng kiếm tìm Người” (Hs 7,8-10).

Và khi ông Isaia ngăn cản vua Acaz đừng tìm cách liên minh với quân Assur, thì không phải ông có sách lược nào tài khéo hơn. Đường lối của vua Acaz mới thật là chính xác bởi vì nó đã bảo đảm cho vương quốc Giuđa được tồn tại ít là tạm thời, nhờ liên minh với quân Assur. Thế nhưng sứ điệp của ông Isaia là sự cứu thoát chỉ có thể đến từ YHWH mà thôi. Giuđa không cần đến biện pháp chính trị nào hết, chỉ cần tín thác vào YHWH. Có thể là Samaria sẽ làm đầu Ephraim, và Rômangiahu sẽ làm đầu Samaria, nhưng tại thủ đô của nước Giuđa, tại Giêrusalem, vị thống lãnh là YHWH, và Người sẽ bảo vệ thành phố như là thánh điện của mình (Is 7,1-9).

Vì thế, các ngôn sứ không đơn thuần là những khuôn mặt chính trị nhưng là những khuôn mặt tôn giáo vĩ đại. Tầm quan trọng và ý nghĩa sâu xa của họ không nằm ở các giải pháp hay những khuôn mẫu chính trị được đề ra (mà lắm khi chúng còn mong manh hơn của đối phương), nhưng là ở các nguyên tắc tôn giáo mà họ khẳng định, khiến cho tôn giáo Israel được tinh tuyền và phổ quát hơn. Ta cũng có thể khẳng định rằng, việc chỉ trích sự lạm dụng quyền bính của các nhà vua đã góp phần vào việc tục hóa chính trị, và đặt nền tảng chính trị trên sự tôn trọng con người. Dù sao, việc tranh đấu cho con người được phát triển trọn vẹn trong một viễn ảnh của niềm tin Israel, cho nên sứ điệp của các ngôn sứ nằm trong lãnh vực tôn giáo chứ không thuộc lãnh vực chính trị, cho dù việc can thiệp của họ diễn ra trong một khung cảnh chính trị. Hơn thế nữa, các ngôn sứ đã nhân danh đức tin để mời gọi khước từ những mưu toan thực dụng của chính trị, nghĩa là kêu gọi các tín hữu hãy vượt lên trên những tính toán chính trị thiển cận để khám phá các lý do cao thượng hơn của niềm tin. Và đây là gia sản chính mà các ngôn sứ truyền lại cho Tân Ước.

5. Sự phân biệt giữa tôn giáo và chính trị

Tuy nhiên Cựu Ước đã khởi đầu một nguyên tắc phân biệt giữa tôn giáo và chính trị, hay nói rõ hơn, một bên là giải trừ chính trị khỏi tôn giáo, và bên kia là giải trừ tôn giáo khỏi chính trị; nguyên tắc này sẽ được khai triển trong Tân Ước.

Thực ra có hai hướng tư tưởng đã chuẩn bị phần nào cho sự phân biệt này. Hướng thứ nhất đã hiện diện trong sứ điệp của các ngôn sứ, như đã nói trên đây, đặc biệt là liên quan đến cuộc phát lưu năm 586 trước CN. Trong khung cảnh này, ông Edêkiel đã suy nghĩ lại quan niệm cổ truyền về giao ước, quay sang khía cạnh tâm linh. Tuy vẫn còn duy trì niềm hy vọng vào vị Mêsia thuộc dòng Đavít (Ed 34,23-24; 37,24-25), nhưng đối với ông, giao ước chỉ mang tính cách hoàn toàn phụng vụ và bí tích mà thôi. Thật vậy, nó kèm theo việc trút đổ Thần khí và biến đổi con tim: “Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành” (Ed 36,25-27).

Như vậy, người ta thấy sự cần thiết giải thoát tôn giáo ra khỏi chính trị, tách chức tư tế ra khỏi chính quyền. Nếu nơi ông Edêkiel, trong hình ảnh Giêrusalem tương lai đã xuất hiện, lần đầu tiên, sự tách biệt giữa đền thánh và đền vua, thì nơi ông Dacaria, trong việc tổ chức cộng đồng mới, sự phân biệt giữa vương triều và chức tư tế còn rõ nét hơn, Thượng tế Giêsua và tổng trấn Zorobabel là những người “được xức dầu đứng phục vụ bên Chúa Tể toàn cõi đất” (Dcr 4,14). Vì thế, có hai vòng triều thiên, một dành cho vị đứng đầu hàng tư tế, còn vòng kia dành cho dòng dõi vua Đavít (6,11-13). Đây là bước đầu của việc tách rời tôn giáo ra khỏi chính trị, và sẽ được diễn tả rõ ràng hơn nơi các sấm ngôn về vị Mêsia trong phần ba của Isaia (các chương 55-66), cũng tập trung vào giao ước mang tính thuần túy tôn giáo.

Song song với việc tách rời tôn giáo ra khỏi chính trị là tiến trình tách rời chính trị ra khỏi tôn giáo, được diễn tả qua việc tục hóa hình ảnh của nhà vua. Như đã thấy, tiến trình này cũng bắt đầu nhờ hoạt động của các ngôn sứ, kể cả trước thời lưu đày. Việc các ngôn sứ kịch liệt chỉ trích nhà vua giả thiết một quan niệm “thế tục” về chính trị, đưa nhà vua xuống hàng phàm trần, một thứ “giải huyền” chính trị. Tuy nhiên, bước quan trọng hơn nữa là việc đọc lại các thánh vịnh đăng quang cổ truyền (2; 72; 89; 110) vào thời hậu lưu đày. Việc đọc lại các thánh vịnh này là bằng chứng cho thấy tiến trình hướng đến viễn ảnh một vị Mêsia mang tính thiêng liêng, khác với quan niệm vương quyền của các bản văn vào lúc ra đời. Nói cách khác, tính cách thánh thiêng không còn gắn với chức vụ công quyền của nhà vua nữa, nhưng được chuyển sang cho vị Mêsia với chức vụ thiêng liêng.

Một hướng tư tưởng thứ hai chuẩn bị cho sự phân biệt giữa tôn giáo và chính trị là luồng suy tư của các sách khôn ngoan, có lẽ đã khởi sự từ thời vua Salômôn rồi được thu thập và truyền thụ qua dòng thời gian, cuối cùng tập trung vào năm tác phẩm (Châm ngôn, Gióp, Giảng viên, Huấn ca và Khôn ngoan). Dĩ nhiên, thật khó nói đến một học phái, bởi vì nó trải dài qua chín thế kỷ, với những điểm nhấn khác biệt, từ giọng điệu lạc quan ôn hòa của sách Châm ngôn, cho đến giọng bi quan yếm thế của sách Giảng viên. Trên thực tế, thật là nguy hiểm nếu muốn xem sự khôn ngoan của Israel như một hiện tượng đồng nhất. Tuy vậy, đối với đề tài đang bàn, ta thấy có vài điểm đồng quy. Trong các suy tư này, được xem như một thứ nghệ thuật sống, một loại kiến thức cụ thể về lề luật của cuộc đời và của thế giới dựa trên kinh nghiệm từng trải, hoàn toàn khác biệt với thần học cổ truyền dựa trên những lần Thiên Chúa mặc khải trong lịch sử, người ta nhìn chính trị hoàn toàn dưới khía cạnh “phàm tục”. Các nhà hiền triết này không bày tỏ một kỳ vọng đặc biệt nào nơi các nhà lãnh đạo, họ chẳng gán cho các vua chúa vai trò nào của Đấng Mêsia. Dĩ nhiên là cần phải chấp nhận trật tự xã hội và phải tôn trọng nhà cầm quyền (Cn 16,14-15; 19,12; 20,2; Gv 8,2-5), nhưng lãnh vực chính trị là chuyện trần tục, với nhiều rủi ro bấp bênh. Vì thế, theo sách Châm ngôn, vai trò của nhà hiền triết được mời làm cố vấn là hãy hướng dẫn nhà cầm quyền về công bình, trắc ẩn, giúp đỡ người nghèo. Tệ hơn nữa, có người coi chính trị như là lãnh vực của khốn khổ và sai lạc, đến nỗi những kinh nghiệm tuyệt vời (như vua Salômôn) rút cuộc cũng thật tồi tệ, cho nên không lạ gì mà sách Giảng viên gợi ý: hãy tránh xa tất cả mọi hình thức tham gia chính trị.

Như vậy, mặc dù có những bản văn và truyền thống khác nhau và có khi tương phản nhau, nhưng quan điểm về chính trị trong Cựu Ước có hai khuynh hướng căn bản sẽ được khai triển hơn trong Tân Ước. Một đàng, Cựu Ước nhìn chính trị từ góc độ tôn giáo, đặc biệt là trong bài giảng của các ngôn sứ, theo đó chính trị phải tùng phục niềm tin. Điều này đưa đến quyền lợi và bổn phận phê phán những lệch lạc của chính trị dựa trên những tư tưởng then chốt của tôn giáo Israel: Thiên Chúa là chủ tể duy nhất của dân Người, và dân phải tuân theo ý Người. Tuy nhiên, đàng khác, cũng xuất hiện một cái nhìn “thế tục” về chính trị ngay từ thời các ngôn sứ và được phát triển khi đọc lại các thánh vịnh. Tư tưởng này sẽ được các sách khôn ngoan đẩy mạnh đến nỗi không còn xem khuôn mẫu chính trị nào là quy chuẩn nữa, nhưng coi tất cả các thể chế và đường lối chính trị đều là tương đối. Hai khuynh hướng này trở thành gia sản đáng giá truyền lại cho Tân Ước.

II. Chính trị trong Tân Ước

1. Tình hình chính trị vào thời Đức Giêsu

Trước khi phân tích tư tưởng Tân Ước về chính trị và Nhà nước, chúng ta hãy dừng lại một giây lát để tìm hiểu tình hình chính trị vào thời Đức Giêsu.

Vào thời Đức Giêsu (nghĩa là khoảng chừng năm 30 CN), dòng họ nhà Asmônêô, hậu duệ của gia tộc Macabê oanh liệt, đã biến mất từ lâu. Năm 63 trước CN, theo lời cầu cứu của chính nhà Asmônêô, tướng Pompeo của Rôma đã đến Giêrusalem và kết liễu sự độc lập của xứ này. Tuy nhiên, quân Rôma không tước đoạt quyền tự trị của người Do Thái ngay lập tức. Vào lúc đầu, họ để cho ông Hircanô của nhà Asmônêô không những được giữ chức thượng tế mà còn được quyền cai trị xứ sở, và như thế chế độ thần quyền vẫn chưa bị bãi bỏ. Về sau, vì lo sợ các đảng phái, quân Rôma giao việc cai trị cho vua Herôt người Iđumê, là một người nước ngoài và như vậy không thể đại diện dân tộc Israel. Chế độ thần quyền bị hủy bỏ, và người Do Thái cảm thấy gánh nặng của sự áp bức ngoại bang. Dù sao, vào những thời của vua Herôt (37-4 trước CN), tình hình xứ sở tương đối yên ổn. Thực vậy, vua Herôt dẹp bỏ tầng lớp quý tộc cũ thuộc khuynh hướng Sađôc và phò nhà Asmônêô, và tạo ra tầng lớp quý tộc mới, cũng thuộc nhóm Sađốc nhưng hoàn toàn tùng phục nhà vua. Vua cũng làm giảm bớt sự chống đối của nhóm Pharisêu bằng cách ngưng chính sách Hy-lạp-hóa xứ sở và tôn trọng luật Do Thái, cũng như tái thiết đền thờ Giêrusalem. Vua cũng kìm hãm những phong trào nổi loạn bằng cách một đàng áp dụng quyền lực, đàng khác tạo thêm công ăn việc làm và trợ cấp kinh tế.

Thế nhưng tình hình thay đổi hoàn toàn với cái chết của vua Herôt. Những người kế vị không có đủ sức mạnh và tài năng chính trị như ông. Vương quốc bị chia làm ba phần (Giuđêa và Samaria cho ông Arkêlau, Galilê và Perêa cho ông Antipas, các vùng đông bắc cho Philippô), và các cuộc khởi nghĩa bùng lên khắp nơi, hầu hết mang tính chính trị-mêsia. Dù sao, một khúc ngoặt quan trọng là tất cả vùng Giuđêa và Samaria được đổi thành một tỉnh của đế quốc Rôma vào năm 6 sau CN. Theo sử gia Flavio Joseph, chính vào dịp ấy, nhân cuộc kiểm tra dân số theo lệnh Rôma để áp đặt thuế thân (tributum capitis), ông Giuđa Gamala, biệt danh Galilê, đã lập một lực lượng đối lập với nhà nước Rôma. Trong cuộc chiến tranh Giuđêa năm 66-73 sau CN, lực lượng này được tiêu biểu nơi nhóm “sicari”, mà theo sử gia Flavio Joseph (Bellum judaicum 2,118; Antiquitates judaicae 18,23), nó có nguồn gốc Pharisêu với đặc điểm là yêu chuộng tự do và học thuyết của họ được tóm lại vào việc giải thích triệt để điều răn thứ nhất (của thập giới), ngăn cấm không được suy phục một vua chúa nào ngoài YHWH.

Ngày nay các sử gia tỏ ra dè dặt hơn trước đây khi xác định sự liên tục giữa nhóm của ông Giuđa và nhóm sicari, cũng như về ý kiến cho rằng từ năm 6 đến năm 66 vùng Palestina chứng kiến những cuộc nổi dậy liên miên chống Rôma. Đặc biệt từ năm 44 sau CN, nghĩa là từ khi đặt vùng Palestina hoàn toàn dưới quyền cai trị của tổng trấn Rôma, tình hình trở nên sôi động. Vì thế, trong thời gian của ông Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu, xem ra không có những biến động lớn lao, kể cả khi các nguồn sử (Philô Alexandria, Flavio Joseph) kể rằng Tổng trấn Philatô cai trị miền Giuđêa và Samaria cách hà khắc. Dù vậy, không thể phủ nhận rằng, tình hình chính trị – xã hội rất bất an, và ngọn lửa vẫn cứ âm ỉ cháy dưới đám tro. Vài khuynh hướng cận đại (như S.G.F. Brandon) cho rằng vào thời Đức Giêsu, những phong trào đề kháng đang sôi sục, nhưng điều này không được chứng minh bằng nguồn dữ liệu. Khuynh hướng đối lại (như H. Guevara) cho rằng Đức Giêsu hoạt động vào một thời kỳ an bình cũng xem ra đáng nghi ngờ. Thời của Đức Giêsu không thể định nghĩa là cánh mạng theo nghĩa chặt, nhưng chắc chắn là có nhiều căng thẳng chính trị và xã hội, sẽ dẫn tới cuộc nổi dậy của các lực lượng chống Rôma sau năm 44 sau CN. Cần phải lưu ý đến các chi tiết này khi bàn đến thái độ của Đức Giêsu đứng trước các khuynh hướng chính trị của đồng bào mình.

Những khuynh hướng này có thể tóm thành ba nhóm. Nhóm thứ nhất của cấp quý tộc, gồm bởi các thượng tế, các kỳ mục và văn nhân, chịu ảnh hưởng nhóm Sađốc nhưng cũng pha với nhóm Pharisêu, tỏ ra ủng hộ chính quyền Rôma, vì thế họ không ưa các phong trào nổi dậy hoặc tư tưởng Mêsia. Nhóm thứ hai thuộc cấp trung lưu, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Pharisêu, rất quý trọng sự tự trị của dân tộc và tôn giáo: họ chấp nhận thực trạng đô hộ của Rôma nhưng tỏ ra chống đối chính sách của vua Herôt muốn du nhập văn hóa Hy-lạp. Nhóm thứ ba của giới bình dân, chịu ảnh hưởng của tư tưởng về Đấng Mêsia đến thực hiện cuộc giải phóng xã hội và chính trị; vì thế họ sẵn sàng tham gia các phong trào cực đoan như ông Giuđa Galilêa, hoặc nhóm sicari, nổi lên chống chính quyền Rôma. Chúng ta nên ý thức bối cảnh ấy khi tìm hiểu thái độ của Đức Giêsu.

2. Hoạt động của Đức Giêsu

Nói chung, các nhà chú giải Tân Ước trình bày Đức Giêsu như vị cứu độ thiêng liêng, và sứ điệp của Người hoàn toàn mang tính “tôn giáo”. Lời giảng của Người không dính dáng gì đến các niềm hy vọng chính trị của thời đại và dân tộc. Chẳng qua là một sự sai lầm về pháp lý, do giới lãnh đạo Do Thái lèo lái, đã đưa đến việc tổng trấn Philatô kết án tử hình Người trên thập tự như một vua mêsia, nghĩa là một tên gây rối loạn chính trị. Đức Giêsu không minh thị tự xưng là mêsia, hoặc nếu có thì chỉ là cách ám tàng hoặc gián tiếp, chẳng hạn như khi dùng thuật ngữ “quyền bính” hoặc “Con Người”.

Chống lại với lập trường vừa nói, vài tác giả gần đây, tiếp nhận những trực giác và gợi ý của H.S. Reimarus (thế kỷ XVIII) và R. Eisler (đầu thế kỷ XX), đã trình bày một hình ảnh khác về tương quan của Đức Giêsu với các nhóm chính trị đương thời. Chúng tôi chỉ muốn nhắc đến hai nhân vật tiêu biểu: Oscar Cullmann cho rằng lời giảng của Đức Giêsu bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của nhóm zelot, nhưng ông cho thấy rằng Người có lập trường hoàn toàn khác với nhóm zelot khi đề cập đến thái độ đối với quân Rôma; S.G.F. Brandon còn nhấn mạnh hơn Cullmann về ảnh hưởng các nhóm Zelot chống đối Rôma, và cho rằng Đức Giêsu tỏ ta là một nhà ái quốc tương tự như ông Giuđa Galilê. Những ý kiến này đã bị các nhà chuyên môn bác bỏ: Đức Giêsu không thể nào bị coi như là một nhà khởi nghĩa chính trị. Các hành động của Người (hoàn toàn bất bạo động), các lời giảng của Người (bài giảng trên núi) đi theo một hướng hoàn toàn khác với các phong trào giải phóng ở Palestina chống đế quốc Rôma (các phong trào tiêu biểu bởi nhóm sicari hơn là bởi nhóm zelot).

Tuy vậy, không thể nào tách rời hành động và lời giảng của Đức Giêsu khỏi tình hình chính trị của Palestina vừa được mô tả trên đây. Có thể quả quyết như vậy, không phải vì dựa trên sự kiện Người đã bị quan Philatô kết án vì tội gây rối trị an, nhưng là dựa vào đặc điểm hành động của Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã xuất hiện ở Palestina suýt soát gần ông Gioan Tẩy giả, và lời giảng của Người gắn liền với lời giảng của ông Gioan. Mặc dù không có yếu tố nào cho phép chúng ta coi ông Gioan chỉ là một nhà cách mạng chính trị, nhưng sử gia Flavio Joseph nói rõ rằng ông Gioan đã quy tụ nhiều đồ đệ, và cái chết của ông không chỉ được gây ra bởi cơn ghen của bà Hêrođia, theo như thánh sử Máccô (6,17-29) thuật lại, nhưng bởi nỗi lo sợ của vua Hêrôđê là sẽ có nhiều vụ nổi loạn xảy ra (Antiq. jud. 18,118-119). Dĩ nhiên, chúng ta gặp lại một hình thức của phong trào ngôn sứ, trong đó các yếu tố cánh chung và mêsia pha trộn với nhau, và gắn kết với những khát vọng chính trị và xã hội.

Nhưng nhất là chính lời giảng của Đức Giêsu chứa đựng nhiều yếu tố có tầm vóc chính trị đáng kể. Đức Giêsu rao giảng triều đại Thiên Chúa đã gần kề. Ý tưởng triều đại Thiên Chúa không chỉ mang nét thiêng liêng và cá nhân, mà thần học tự do bên Tin lành hồi thế kỷ XIX đã giải thích (dựa trên việc chú giải Lc 17,21: “Triều đại Thiên Chúa ở trong các ông”). Đối với người Do Thái, triều đại Thiên Chúa có nghĩa là chủ quyền của Thiên Chúa, vương quyền của Thiên Chúa. Triều đại Thiên Chúa đến có nghĩa là Thiên Chúa can thiệp dứt khoát vào lịch sử để thiết lập chủ quyền của Người và thực hiện sự cứu thoát Israel. Chủ quyền và sự cứu thoát này không chỉ có nghĩa thiêng liêng, nhưng bao gồm việc kết liễu cuộc đô hộ của ngoại bang, xóa bỏ những bất công xã hội và thực hiện một vương triều hòa bình thịnh vượng. Mặc dù Đức Giêsu bác bỏ mọi lối giải thích chính trị về bản thân và sứ mạng của Người, chẳng hạn như khi khước từ việc suy tôn làm vua (Ga 6,15), nhưng việc rao giảng vương triều Thiên Chúa không thể nào không gợi lên trong lòng người nghe niềm hy vọng được giải phóng chính trị và cứu vãn xã hội.

Mặt khác, lời giảng này trước hết nhắm đến người nghèo. Họ là những người ưu tiên được loan báo tin mừng về triều đại Thiên Chúa: đối với họ, lời giảng này quả là một tin vui mừng. Và chúng ta cần hiểu người nghèo không theo nghĩa thuần túy thiêng liêng như những luồng hộ giáo quen giải thích, nhưng là theo nghĩa thực tế và vật chất của những người bị chèn ép, bị khai thác, bị loại trừ, kể cả trên bình diện xã hội trước khi nói đến bình diện kinh tế. Việc dành mối quan tâm đặc biệt đối với người nghèo là một sự kiện rõ ràng trong hành động của Đức Giêsu, và mang theo nhiều hệ luận chính trị. Sự cứu độ (“vương triều”) mà Đức Giêsu loan báo nhắm đến người nghèo trước hết. Sự cứu độ này không chỉ được loan báo mà còn được chính Người mang lại. Nơi những việc chữa bệnh và trừ tà, là những hành động nổi bật nhất của Người, người nghèo cảm nhận được sự cứu độ đã hiện diện. Điều tương tự cũng nói được về những lần Đức Giêsu ngồi ăn với họ – một điều gây vấp phạm hơn cả trong cách cư xử của Người (Mc 2,16: “Tại sao Người lại ngồi bàn với những người thu thuế và những người tội lội”); những người tội lỗi cũng cảm thấy sự cứu thoát đã được mang đến cho họ. Do đó, sự cứu thoát không chỉ là lời hứa sắp được thực hiện, nhưng là chính Thiên Chúa đã chăm sóc người nghèo qua hành động và lời giảng của Đức Giêsu.

Nhưng Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ loan báo triều đại Thiên Chúa đến, mà còn là một vị thầy giảng dạy lề luật. Và theo cung cách giảng dạy, giáo huấn này mang theo nhiều hệ luận xã hội. Trước hết, Đức Giêsu đả kích quan niệm nghi thức về sự thánh thiêng, sự phân biệt giữa thanh tịnh và ô uế vốn thịnh hành nơi phái Pharisêu. Chẳng hạn như khi dạy rằng “không có gì từ bên ngoài vào lại có thể làm cho con người ra ô uế; chỉ có cái ở trong con người mà ra thì mới có thể làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,15), Đức Giêsu đã xét lại toàn thể luật lệ của phái Pharisêu về sự thanh tịnh, và vượt lên sự phân biệt căn bản đối với người xưa về cái thiêng và cái tục, và đặt sự thanh tịnh nghi thức lệ thuộc vào sự thanh tịnh luân lý. Ngoài ra Đức Giêsu du nhập một yếu tố phá đổ tất cả đạo lý Pharisêu khi Người tự trao cho mình quyền phán đoán lề luật. Những sự vi phạm ngày sabát (nghĩa là quy tắc căn bản của luân lý Do Thái) tất nhiên cũng loại bỏ mọi quan niệm hình thức về lề luật; sự loại bỏ này được phát biểu qua câu nói: “ngày sabát được làm cho con người, chứ không phải con người được làm cho ngày sabát” (Mc 2,27), và cho thấy rằng tính cách luân lý không tùy thuộc vào sự tuân thủ các luật lệ pháp lý nhưng tùy thuộc vào việc vâng phục ý Chúa cách chân chính. Cuối cùng những thái độ ấy được diễn tả qua việc quan tâm đến các thành phần thấp kém nhất về mặt luân lý (người nghèo, người thu thuế, người tội lỗi) đã nói trước đây, và bị những giới cao cấp trong xã hội (nhất là nhóm Pharisêu và Sađốc) coi là tồi tệ. Thực vậy, mối quan tâm ấy đã xét lại cốt lõi của luân lý Do Thái giáo: người “có đạo” thì hơn người “vô đạo”, người “lành thánh” thì hơn người “tội lỗi”, với những hệ quả rất nguy hiểm cho sự vẹn toàn tôn giáo của dân tộc Do Thái. Các đối thủ của Đức Giêsu đã nhận ra điều ấy.

Những nhận xét vừa nói mời gọi chúng ta hãy thận trọng khi định nghĩa lời giảng của Đức Giêsu là “thuần túy tôn giáo”. Hẳn là Đức Giêsu không chia sẻ những hy vọng chính trị của đồng bào mình, Người không tham gia các nhóm khởi nghĩa chống lại đế quốc Rôma, thậm chí Người tẩy chay mọi hình thức sử dụng bạo lực. Như vậy ta có thể nói rằng, lời giảng của Người “tự bản chất là tôn giáo”. Nhưng những hệ luận chính trị và xã hội của việc Người loan báo triều đại Thiên Chúa và giáo huấn về lề luật đã gây ra nhiều mối băn khoăn áy náy cho giới lãnh đạo Do Thái đương thời, và được coi là nguyên nhân không nhỏ dẫn đến việc Người bị Thượng hội đồng kết án tử hình.

3. Việc nộp thuế

Lời giảng của Đức Giêsu, tuy “tự bản chất là tôn giáo” nhưng có nhiều hệ luận chính trị và xã hội. Tuy nhiên, có một câu chuyện trong sách Tin Mừng, trong đó Người bày tỏ lập trường rõ ràng về Nhà nước, đó là câu chuyện nộp thuế.