Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2022

THẦN HỌC VỀ SỰ TẠO DỰNG

Thời sự Thần học – Số 44, Tháng 6/2006, tr. 54-78.

_Hoà Bình_


Hồi còn nhỏ khi dọn mình rước lễ lần đầu, chúng ta được dạy rằng :"Đức Chúa Trời dựng nên trời đất trong bảy ngày". Thế nhưng, dần dần chúng ta biết : vũ trụ này không phải chỉ thành hình trong vòng bảy ngày mà cả hằng triệu năm. Hơn thế nữa, vũ trụ này là do vật chất tiến hóa chứ chẳng phải do ai dựng nên cả! Thế thì thử hỏi: đức tin về Thiên Chúa tạo dựng có còn ý nghĩa gì nữa hay không? Chúng ta sẽ khảo cứu đạo lý về sự tạo dựng từ Kinh thánh, qua truyền thống của Giáo hội, và sau cùng, đối chiếu đức tin với những vấn nạn của khoa học hiện đại, tựa như: tiến hóa, môi sinh…


PHẦN THỨ NHẤT: Mạc khải về tạo dựng trong Kinh Thánh Cựu Ước


1. Nhìn chung


Trong quá khứ, thần học đã vấp phải vài lầm lỗi không nhỏ khi khảo sát những đoạn văn Kinh thánh nói về sự tạo dựng.

* Lỗi thứ nhất là ra như họ chỉ giới hạn vào chương thứ nhất của sách Sáng thế, mà bỏ qua các đoạn văn khác của toàn bộ Kinh thánh (cả Cựu ước lẫn Tân ước).

* Lỗi thứ hai là kể cả khi giới hạn vào chương đầu của sách Sáng thế, họ coi đó như là một đoạn văn mô tả việc tạo dựng vũ trụ theo thứ tự xuất hiện các loài, giống hệt như các sách sử ký hay vật lý. Nói cách khác, họ không chú ý đến thể văn cũng như bối cảnh của những chương đầu của sách Sáng thế.

Ngày nay, khoa chú giải Kinh thánh đã nhắc nhở các độc giả hai điều cần lưu ý khi đọc các bản văn Kinh thánh về sự tạo dựng.

* Thứ nhất, cần phải nghiên cứu thể văn của từng đoạn. (Điều này cũng được áp dụng khi bình giảng văn chương nói chung: chúng ta không thể dùng một tiêu chuẩn như nhau khi phân tích một bài thơ, một cuốn tiểu thuyết, một biên bản của Sở Công an, một văn bản pháp lý, một công thức toán học). Thậm chí ở đầu sách Sáng thế, thể văn của chương 1 và bốn câu đầu của chương 2 thì khác với thể văn của những phần còn lại của chương 2, bởi vì do hai bàn tay khác nhau đã soạn ra.

* Điều thứ hai cần lưu ý là mục tiêu của các tác giả Sách thánh: Họ không có chủ ý trình bày sự thành hình của vũ trụ này để thỏa mãn óc tò mò suy tư cho bằng nhằm ca ngợi quyền năng và lòng nhân ái của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương Dân của mình. Thực vậy, các tác giả Sách thánh không phải là những nhà vật lý học cũng chẳng phải là những triết gia. Họ là thành phần của dân Israel, một dân tộc đã cảm nghiệm được tình yêu của Giavê nhiều lần can thiệp vào lịch sử của họ, đặc biệt là kể từ lúc giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ của Ai cập. Để tỏ ra lòng yêu thương ấy, Giavê đã không ngần ngại thi thố quyền năng trên tinh tú và sóng nước để cứu dân riêng của mình. (Xem các bài ca ở sách Xuất hành chương 15, câu 1-18; Giosuê 10,5-13). Giavê là Chúa trên trời, là bá chủ tất cả trời đất, điều hành tất cả sấm chớp cuồng phong. Thế mà vị Chúa tể càn khôn như vậy đã thương đoái hoài tới Israel, huy động các quyền năng thiên nhiên để bày tỏ ra tình thương của mình.

Tất cả những đoạn văn của Kinh thánh nói về sự tạo dựng cần được đọc trong bối cảnh của lòng thán phục tri ân đó. Israel đã cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương vì đã chọn mình từ con số không giữa muôn vàn dân khác (dù khi nói ơn gọi tổ phụ Abraham hay là khi nói tới sự thiết lập một dân tộc từ những bọn người nô lệ). Thế nhưng lòng tin vào tình thương của Giavê đã gặp phải cơn khủng hoảng khi mà Israel bị mất nước và nếm cảnh lưu vong: phải chăng họ đã bị Giavê bỏ rơi rồi? Các ngôn sứ đã trả lời: Không, Chúa không có bỏ rơi Israel đâu! Trước đây, Ngài đã tạo dựng họ từ con số không; nay Ngài cũng có thể tái tạo họ từ con số không. Quyền năng của Ngài không phải chỉ giới hạn trên lãnh thổ Canaan; quyền năng của Ngài lan rộng khắp cả hoàn vũ, dĩ nhiên kể cả tại nơi Israel đang bị lưu đày. Thực vậy, Giavê là Đấng Tạo dựng trời đất. Lời xác tín của các ngôn sứ (Amos 4,13; 5,8-9; 9,5-6; Giêrêmia 32,17; 33,25-26; Isaia 40,22-28; 42,5-6...) nhằm khẳng định rằng Giavê không hề lãng quên giao ước: Ngài vẫn còn yêu thương Israel, và sẽ ra tay cứu thoát họ. Sự cứu thoát được ví như cuộc "tạo dựng mới".

Tóm lại, chân lý về Thiên Chúa tạo thành trời đất không phải là một lời khẳng định siêu hình về nguồn gốc vũ trụ, cho bằng tuyên dương lòng xác tín nơi tình Chúa yêu thương cứu vớt. Cần phải đọc các đoạn văn về tạo dựng trong bối cảnh ấy.

2. Chúng ta sẽ rảo qua những đoạn quan trọng nhất 

Sáng thế 1,1-2,4a; Sáng thế 2,4b-25; Các Thánh vịnh, các sách Khôn ngoan; Maccabê quyển 2, chương 7 câu 28.

2.1 - Đoạn văn của chương 1 của sách Sáng thế kéo dài sang tới phần đầu của câu 4 ở chương 2 do một tác giả quen gọi là thuộc "nguồn tư tế" (Priestercodex). Như trên đã nói, trước đây không thiếu người đã giải thích đoạn văn này như bài tường thuật diễn tiến công cuộc tạo dựng vũ trụ (theo thứ tự của 6 ngày hay là 6 niên đại). Nhưng khoa chú giải Kinh thánh đã cho thấy rằng đó không phải là dụng ý của tác giả. Tác giả đã sử dụng những chất liệu rút từ truyền thống dân gian để soạn ra một bài huấn giáo chung quanh đề tài căn bản phát biểu ở câu 1: "Khởi thủy Thiên Chúa dựng nên trời và đất". Dựng nên như thế nào? bằng lời của Ngài. Thành ngữ "Chúa phán thế này" được lặp đi lặp lại nhiều lần tựa hồ điệp khúc của bài hò ca, muốn nói lên quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thực vậy, nơi các thần thoại về sự tạo dựng ở các tôn giáo cổ truyền, công cuộc tạo dựng rất là vất vả mệt nhọc: các thần phải trầy da tróc vẩy vật lộn với nhau (kiểu như Sơn tinh với Thủy tinh) để vừa để xây dựng vừa để bảo vệ chống những tên đặc công phá hoại! Còn trong Kinh thánh thì tất cả diễn ra cách êm thắm dễ dàng, do lời của Chúa phán.

Công cuộc tạo dựng kéo dài bao lâu? Đây không phải là mối bận tâm của tác giả. Người ta nhận thấy có sự gượng ép khi mà tác giả kể ra đến 8 công tác (ánh sáng, vòm trời, đất và biển, thảo mộc, tinh tú, cá biển chim trời, động vật, con người), nhưng phải làm cho xong trong vòng 6 ngày. Vì vậy mà có lúc phải tăng gia sản xuất, nghĩa là có ngày phải làm 2 công tác (ngày thứ 3: đất biển và thảo mộc; ngày thứ 6: động vật và con người). Sự làm việc gấp rút như vậy nhằm đạt tới chỉ tiêu nào? Thưa là để được nghỉ vào ngày thứ 7, ngày mà Israel tưởng niệm giao ước. Nói khác đi, công cuộc tạo dựng hướng tới giao ước. Thiên Chúa tạo dựng bằng "Lời" của Ngài, Lời biểu lộ quyền năng cũng như Lời biểu lộ việc mạ khải đối thoại. Về phần Israel, họ hãy nhớ rằng vũ trụ này đã được Thiên Chúa tạo dựng để ban cho con người sử dụng. Họ hãy nhận biết sự tốt lành của Thiên Chúa nơi các tạo vật, chứ đừng đi thờ lạy những ngẫu tượng! Con người là hình ảnh của Thiên Chúa cơ mà; dại gì mà lại đi thờ đất đá? Nói chung, đoạn văn này mang tính chất lạc quan: mọi sự đều nằm trong tay của Chúa; Chúa đã dựng nên mọi sự tốt lành; mọi tạo vật cần phải nhìn nhận chúc tụng Chúa. Đó mới là tư tưởng chính của tác giả. Tác giả không có ý định thuật lại thứ tự của các công việc (thứ tự này có lẽ lấy từ chất liệu của truyền thống dân gian), lại càng không có ý định giới hạn việc tạo dựng trong 6 ngày. Thực vậy, tiếng "ngày" không có giá trị thời gian, xét vì ngày thứ nhất đã được nói tới đang khi mà lẽ ra phải chờ cho tới ngày thứ tư khi mặt trời và mặt trăng được dựng nên để phân biệt ngày với đêm!

2.2 - Đoạn văn ở chương 2, câu 4b-25 của sách Sáng thế không chủ ý trình bày chân lý về sự tạo dựng cho bằng chân lý về nguồn gốc của sự dữ sẽ được khai triển ở chương 3. Dù sao thì nó do một bàn tay khác viết ra (quen gọi là nguồn J, vì gọi Thiên Chúa bằng danh hiệu Jahvê). Lối hành văn khác với chương 1, và chú trọng tới sự tạo dựng con người hơn là sự tạo dựng vũ trụ.

2.3 - Các Thánh vịnh

Trong các thánh vịnh, sự tạo dựng trở thành chủ đề cho các tâm tình tạ ơn (Tv 136), ngợi khen và thờ lạy (Tv 148), tin tưởng (Tv 33), trầm trồ thán phục (Tv 8 và 104). Chúng ta thấy đôi khi vịnh gia liệt kê các công tác tạo dựng giống như thứ tự ở chương đầu của sách Sáng thế (Tv 104), nhưng đặc biệt hơn nữa là chuỗi những công tác tạo dựng vũ trụ được móc nối với chuỗi những công tác cứu thoát dân Israel (Tv 136), với điệp khúc: "muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương". Qua các thánh vịnh này, ngoài những chân lý đã nói ở sách Sáng thế (thí dụ như: + tạo dựng bằng "lời", Tv 33,6.9; Tv 148,5; + chỗ đứng ưu việt của con người: Tv 8,4-5), tác giả còn muốn đề cao chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa: Ngài tiếp tục ban cơm bánh lương thực nuôi dưỡng các sinh linh (Tv 136,25; 145,15; 147,8); và nhất là chúng sống được là nhờ thần khí của Chúa (Tv 104,29-30).

2.4 - Các Sách Khôn ngoan.

Bối cảnh của các tác phẩm này đã khác với các sách lịch sử và ngôn sứ. Chân lý về sự tạo dựng không còn được gắn liền với lịch sử cứu độ, nhưng trở thành một đề tài suy niệm và áp dụng vào luân lý cá nhân. Người ta thấy là các tác giả đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy lạp. Sự tạo dựng được coi như tác phẩm bày tỏ sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa (Châm ngôn 3,19-21; 8,22-23); do đó mà con người cũng phải học biết cách cư xử theo lẽ khôn ngoan. Mặt khác, tác giả của sách Giób (ch.28), Giảng viên (ch.3), Huấn ca (1,4-6; 3,21-24) thành thực thú nhận rằng tuy họ chấp nhận sự khôn ngoan cao cả của Chúa, nhưng họ không hiểu nổi đường lối thâm sâu của Ngài nhất là khi phải đối chiếu với sự dữ ở trên đời này. Sách Khôn ngoanđánh dấu một bước tiến thần học về sự tạo dựng ở hai điểm:

a/ Tác giả nói tới sự "tạo dựng vũ trụ” (cosmos) lấy từ văn hóa Hy lạp, thay vào từ ngữ "dựng nên trời đất” của văn hóa Do thái cổ truyền.

b/ Ở chương 13, câu 1-5, tác giả quả quyết rằng từ những công trình trong vũ trụ này, trí khôn có thể lý luận về sự hiện hữu của vị Chủ tể.

2.5 - Sau cùng, quyển 2 của sách Maccabêô, chương 7 câu 28, đánh dấu bước tiến cuối cùng của đức tin, khi khẳng định rằng Thiên Chúa đã làm nên trời đất "từ những cái không có trước" (ouk ex onton). Như vậy, chân lý về sự tạo dựng được phát biểu cách hoàn bị hơn: tạo dựng từ hư vô (productio ex nihilo).

PHẦN THỨ HAI: Mạc khải về tạo dựng trong Kinh thánh Tân ước


Kinh thánh đã trình bày sự tạo dựng không phải như là một chân lý siêu hình liên quan tới nguồn gốc của vũ trụ cho bằng như là lời tuyên xưng quyền năng và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng cứu thoát của Israel. Các tác giả của Tân ước tiếp nhận lòng tin vào Thiên Chúa dựng nên trời đất, mà truyền thống Cựu ước đã để lại. Mặt khác, Tân ước đã tiến thêm một bước khi nói tới vai trò của đức Kitô như nguyên ủy và cùng đích của sự tạo dựng.

1) Trong Phúc âm nhất lãm, chúng ta thấy nhiều lần Chúa Giêsu không những đã ca tụng Thiên Chúa là "Chủ tể của trời đất" (Mt 11,25), nhưng còn đi trở lại với hồi nguyên thủy để nhắc nhở về ý định của Đấng Tạo hóa. Thí dụ về sự tốt lành của vạn vật (Mc 7,14-20; chống lại quan điểm Pharisêu phân biệt những vật thanh khiết và những vật ô uế); về sự nghỉ ngơi ngày thứ 7 (ngày của tự do hoan hỉ và yêu thương, chống lại quan niệm vụ luật về việc nghỉ việc: Mc 3,4); về hôn nhân bất khả ly (Mt 19,8). Đặc biệt, chân lý về Thiên Chúa chủ tể vạn vật được dùng để khuyến khích ta tín thác nơi Cha trên trời, Đấng quan phòng lo lắng cho cả chim trời và hoa đồng (Mt 6,25-34), Đấng ban mưa nắng cho cả người lành người dữ (Mt 5,45; Lc 6,35), Đấng đếm hết các sợi tóc trên đầu ta (Mt 10,29), Đấng đã yêu thương ta "ngay từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25,34; xc Ep.1,2).

2) Thánh Phaolô cũng nuôi một niềm thâm tín như cha ông rằng "tất cả mọi sự đều tự Thiên Chúa mà có" (1Cr 11,12), rằng "trái đất và muôn loài trong trái đất đều thuộc về Chúa" (1Cr 10,26). Thánh Phaolô cũng lặp lại tư tưởng của sách Khôn ngoan khi khẳng định rằng từ các sự vật hiện hữu ta có thể suy ra sự hiện hữu của Đấng Tạo thành (Rm 1,19-20). Tuy nhiên, Phaolô tiến xa hơn Cựu ước khi xen vào vai trò của Đức Kitô trong công cuộc tạo dựng, đặc biệt là trong 1Cr 8,6; Cl 1,15-20 (xc. Do thái 1,1-3). Đức Kitô đã ở bên cạnh Chúa Cha vào lúc tạo dựng (Rm 11,36) như là "Thượng trí của Thiên Chúa" (x. 1Cr 1,24.30) mà các sách Khôn ngoan nói tới (Châm ngôn 8,22; Huấn ca 24,1-9). Đức Kitô vừa là trung gian của việc tạo dựng vừa là trung gian của việc cứu chuộc (1Tm 2,5). Đức Kitô là nguyên ủy, trung tâm và cùng đích của sự tạo dựng: "trong Người muôn vật được tạo thành... tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người" (Cl 1,16). Khi đặt Đức Kitô hiện diện trong công cuộc tạo dựng, thánh Phaolô muốn gắn chặt kế hoạch tạo dựng và kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa (Ep 1,3-14). Sự tạo dựng không chỉ liên quan tới hồi nguyên thủy cho bằng nhắm tới cùng đích viên mãn cánh chung của sự "tạo dựng mới" (2Cr 5,15; Gl 6,15; xc. Rm 8,21; 1Cr 15,28). Dù sao, lòng tin nơi Chúa tạo thành và cứu chuộc trở thành động lực giúp cho người tín hữu hiên ngang tín thác, không sợ hãi quyền lực nào trên trời dưới đất nữa, khi họ biết rằng tất cả mọi loài đều phải suy phục Thiên Chúa (1Cr 3,21-23; 1Tm 4,2-5).

3) Thánh Gioan đã trình bày vai trò của Đức Kitô trong công cuộc tạo dựng khi khai triển đề tài "Lời của Thiên Chúa". Sách Sáng thế nói rằng Thiên Chúa đã dựng nên trời đất bằng lời của Ngài. Thánh Gioan giải thích rằng "lời" là một Ngôi vị. Lời hằng hữu từ nguyên thủy, Lời đã cùng tham dự vào công cuộc tạo dựng cũng là Lời mà Thiên Chúa mạc khải đối thoại với Israel, và sau cùng đã cắm lều giữa chúng ta, mang lại cho chúng ta ân sủng và chân lý. Thực vậy, Lời ấy cũng là sự sống, ánh sáng cho hết mọi người. Sách Khải huyền còn thêm rằng Đức Kitô là Khởi đầu và là Tận cùng (Alpha và Omega: 21,6; 22,13) của công cuộc tạo dựng và của dòng lịch sử. Kết điểm của lịch sử là sự tái tạo "trời mới đất mới", khi trời đất giao duyên trong thành Giêrusalem trên trời, nơi không còn đêm tối, không cần ánh sáng của đèn hay của mặt trời vì Thiên Chúa sẽ chiếu soi họ (22,5).

PHẦN THỨ BA: Mạc khải về tạo dựng trong truyền thống Giáo hội


Khi nói đến sự tạo dựng, chúng ta thấy rằng Kinh thánh (cả Cựu ước lẫn Tân ước) không giới hạn vào một chân lý trừu tượng liên quan tới nguồn gốc của vũ trụ, nhưng luôn lồng trong bối cảnh của chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, và rút ra những bài học thực tiễn cho đời sống, nhất là khi đức tin bị lung lay trước những thử thách của cảnh lưu đày, của sự đàn áp dưới lực lượng sự dữ. Trải qua dòng lịch sử của Kitô giáo, chân lý về Thiên Chúa tạo thành được khẳng định vào những cơ hội khác nhau, khi mà đức tin bị tấn công bởi những trào lưu đối nghịch. Có những chủ trương đồng hóa vũ trụ vật chất với Thiên Chúa (tạm gọi là "nhất nguyên", monismus). Đối lại, có những chủ trương coi vật chất là xấu xa, và không phải do Thiên Chúa làm ra song là bởi một căn nguyên khác (tạm gọi là "nhị nguyên", dualismus). Chúng ta hãy rảo qua lịch sử của truyền thống Hội thánh, phân thành ba giai đoạn: 1) thời giáo phụ; 2) thời trung cổ và cận đại; 3) thế kỷ 19-20.

A. Thời giáo phụ.


Vào thời các giáo phụ, đức tin về Thiên Chúa tạo dựng được ghi vào đầu các tín biểu; mặt khác, các tác giả cũng đã phải đối chất lòng tin ấy với những triết thuyết và tôn giáo đương thời.

1) Các tín biểu cổ truyền đều tuyên xưng Thiên Chúa Cha toàn năng (pantokrator: omnia tenens, người thống lĩnh mọi sự). Từ thế kỷ 4, mới xuất hiện biểu thức "Đấng dựng nên trời đất" (creatorem coeli et terrae). Công đồng Nixêa (315) thêm rằng: "mọi vật hữu hình và vô hình", nhằm bài trừ thuyết nhị nguyên. Công đồng Nixêa cũng thêm vai trò của đức Kitô trong công cuộc tạo dựng: khác với vũ trụ này, đức Kitô thì "được sinh ra chứ không phải được tạo thành" (genitum non factum); hơn thế nữa, "nhờ Người mà muôn vật được tạo thành" (per quem omnia facta sunt).

2) Khi mang Tin mừng đến truyền bá cho văn minh Hy lạp, Kitô giáo đã gặp một trở ngại lớn, bởi vì tại đây họ chủ trương rằng vật chất đã hiện hữu từ muôn thuở (ảnh hưởng của triết thuyết Platon và Stoa). Các nhà hộ giáo (thí dụ như Taxianô) đã phải trình bày đức tin Kitô giáo với một ngôn ngữ chính xác hơn, đó là "tạo dựng từ hư vô" (creatio ex nihilo). Duy chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng tự hữu và vô biên; còn vũ trụ này thì hữu hạn và có thời gian. Vũ trụ này được dựng nên và nhận được sự hiện hữu bởi Thiên Chúa.

3) Mặt khác, ngay giữa lòng các Kitô hữu nảy ra phái ngộ đạo với chủ trương nhị nguyên. Theo họ, sự dữ và vật chất không thể nào do Thiên Chúa làm ra: vũ trụ này phát xuất bởi một nguyên ủy xấu. Phong trào ấy bành trướng mạnh mẽ với chủ thuyết "manikê" (lấy tên từ vị thủ lãnh Mani hay Manêtê +227). Thánh Augustinô đã viết nhiều sách để phi bác thuyết ấy.

B. Thời Trung cổ và cận đại.


1) Vào thời Trung cổ, thuyết nhị nguyên của Manikê tái phát nơi phong trào "Catari" và "Albigensê". Công đồng Latêranô IV (1215) đã phải can thiệp và tuyên bố rằng: Chỉ có một Chúa Tạo thành (chứ không có hai); Ngài dựng nên vạn vật từ hư vô (dĩ nhiên là chính Ngài đã dựng nên vũ trụ vật chất, chứ nó không tự hữu); Sự dữ không phải là một thực thể biệt lập nhưng bắt nguồn từ tội lỗi (ma quỷ đã được Chúa dựng nên như là thiên thần tốt, rồi sau đó sa ngã thành quỷ).

2) Thánh Tôma Aquinô sử dụng triết thuyết của Aristốt để trình bày chân lý về sự tạo dựng xét dưới khía cạnh siêu hình (hữu thể học). Thiên Chúa là hữu thể tuyệt đối; còn các thụ tạo thì được Ngài ban sự hiện hữu. Giữa Đấng Tạo hóa và loài thụ tạo có sự tương-đồng loại-suy xét về hữu thể (analogia entis). Mặt khác, thánh Tôma cho rằng nhờ đức tin chúng ta mới biết được là vũ trụ này có khởi thủy thời gian; chứ còn nếu xét theo lý luận tự nhiên, thì chuyện vũ trụ hiện hữu từ muôn thuở không có gì là phi lý. Sự lệ thuộc của vũ trụ vào Đấng Tạo hóa xét về hiện hữu không nhất thiết bao hàm rằng vũ trụ hiện hữu sau Đấng Tạo hóa xét về thời gian (Sum. Theol. I,q.45,3). Từ thánh Tôma trở đi, thần học về sự tạo dựng rẽ sang một khúc quặt: nó mang tính cách siêu hình xét về hữu thể, và quên dần chiều kích lịch sử cứu rỗi. Nó giới hạn vào vấn đề nguồn gốc của vũ trụ, chứ không còn liên can tới vấn đề Quan phòng, Cứu chuộc và Cánh chung.

C. Thế kỷ 19-20.


1) Vào thời cận đại, thần học về sự tạo dựng gặp khủng hoảng từ nhiều phía. Về phía triết học, với sự xuất hiện của những học thuyết phiếm thần (pantheismus) của Spinoza, đưa thời thuyết duy tâm của Hegel (phiếm thần duy linh) và thuyết duy vật của Marx (phiếm thần duy vật). Về phía khoa học, vấn đề nguồn gốc của vũ trụ được khảo cứu theo phương pháp thực nghiệm toán học chứ không theo đưòng lối siêu hình như trước. Những ngôn ngữ của Kinh thánh trái ngược với ngôn ngữ của vật lý học, nhất là khi mà các bản văn Kinh thánh được giải thích một cách máy móc theo chữ đen.

2) Chống lại các học thuyết phiếm thần, Công đồng Vaticanô I khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng Tạo thành nên vũ trụ. Nói khác đi, không thể đồng hóa Thiên Chúa với vũ trụ. Ngài đã dựng nên vũ trụ do tình thương dạt dào chứ không phải vì thúc bách để mình được hoàn thiện hơn. Mặt khác, lý trí con người có thể nhìn biết Đấng Tạo hóa từ những vật đã được dựng nên. (Hiến chế Dei Filius)

3) Vào đầu thế kỷ 20, thần học về sự tạo dựng gặp phải sự thách đố mới từ thuyết tiến hóa của Darwin, lúc đầu áp dụng vào các sinh vật rồi sau đó mở rộng cho toàn thể vũ trụ. Dưới nhãn giới của thuyết tiến hóa, vũ trụ này chưa hoàn tất vào lúc khởi nguyên nhưng còn tiếp tục tiến triển hoài hoài.

4) Khi bàn về vấn đề tạo dựng, Công đồng Vaticano II đã trở về với nguồn Kinh thánh, không những đã lồng nó trong lịch sử cứu rỗi với trung tâm và cùng đích là đức Kitô, nhưng còn muốn nêu bật chiều kích nhân bản của nó. Vũ trụ này được Chúa dựng nên và trao cho con người cai quản: nhờ lao động, con người cũng tham gia vào công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa. (Hiến chế Vui mừng và Hy vọngsố 33-39.45). Ngoài ra, Hiến chế về Mạc khải số 2 cũng quan niệm sự tạo dựng như là khởi điểm của lịch sử cứu rỗi, chặng mở đầu của việc Chúa thông ban mình do tình thương dạt dào và sự thượng trí vô bờ bến.

PHẦN THỨ TƯ: Thần học về sự tạo dựng trước những thách đố của sinh thái học (Ecology)


Từ ngữ "ecologia" được ghép bởi hai danh từ gốc hy lạp "oikos" (nhà ở) và "logos" (lời), để diễn tả một ngành nghiên cứu những điều kiện chi phối sự sống của con người, xét trong mối tương quan giữa con người với nhau cũng như xét trong mối tương quan giữa con người với các vật khác nằm trong môi trường của mình. Một cách cụ thể, vấn đề sinh thái được nêu lên chung quanh vấn đề bảo vệ và duy trì môi trường thiên nhiên. Từ thập niên 60 của thế kỷ 20, các nhà sinh thái học không ngừng lên tiếng báo động về những mối đe dọa tới sự sống con người, cách riêng do bốn nhân tố sau đây:

1) Ô nhiễm môi sinh (không khí và nước);

2) Tăng gia nhân số;

3) Sự hao mòn của nguyên liệu thiên nhiên và sự tiêu diệt của nhiều loài sinh vật;

4) Thi đua vũ trang. Điều tệ hại trầm trọng ở chỗ là không phải bốn nhân tố tác dụng lẻ tẻ rời rạc, nhưng móc nối lẫn nhau, khiến cho việc đề phòng rất khó khăn. Theo các nhà sinh thái, bởi vì dân số thế giới gia tăng, cho nên phải tăng thêm việc khai thác tài nguyên, gây ra cảnh kiệt quệ cũng như cảnh ô nhiễm. Sự thi đua võ trang cũng là một giải pháp để đương đầu với nạn nhân mãn.

Trước bức tranh đen tối như vậy, nhiều người đành bó tay thúc thủ bởi vì thấy mình bất lực trước sức tấn công đồng lúc của bốn tên địch. Có người thì kiên nhẫn phân tích các nguyên nhân, và tìm những biện pháp xoay ngược tình thế. Trong bối cảnh này, một số nhà sinh thái học cho rằng nguyên nhân chính của sự hủy hoại thiên nhiên là thần học Kitô giáo về sự tạo dựng. Do đó, nếu muốn thay đổi tình thế thì cần phải sửa chữa lại não trạng, nghĩa là phải loại bỏ thần học tạo dựng đi. Dựa vào đâu mà các nhà sinh thái học lập luận như vậy? Chúng ta hãy nghe. Khi bàn về nội dung của lòng tin vào sự tạo dựng chúng ta thấy rằng lòng tin Kitô giáo đã nên động lực thúc đẩy cho sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật.

Thực vậy, trong nhiều tôn giáo cổ truyền, con người sợ hãi trước quyền lực của thiên nhiên, và gán cho nó một sức mạnh thần thiêng (Thần gió, thần lửa, thần sông, thần thổ vv). Với một tâm trạng khúm núm như vậy, chắc chắn con người sẽ không bao giờ dám khai sơn phá thạch. Mặt khác, có tôn giáo thì coi đời này là bể khổ, càng lao vào thì càng lận đận; vì thế tốt hơn cả là hãy thoát ly khỏi thế tục. Quan điểm như vậy chắc hẳn là cũng không giúp cho khoa học tiến bộ được! Đối lại, Kitô giáo chủ trương rằng tất cả các vật trên đời này là do Thiên Chúa tạo dựng nên dành cho con người sử dụng. Vì thế con người đừng sợ sệt trước thiên nhiên; trái lại, hãy biết dùng đầu óc và đôi tay để khai khẩn và canh tác. Con người được mời gọi tham gia vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa.

Nhận xét vừa nói đã được lịch sử kiểm chứng: khoa học và kỹ thuật tiến bộ mạnh tại những dân tộc theo Kitô giáo. Thế nhưng, vào cuối thế kỷ 20, sự kiện đó lại được các phong trào sinh thái dùng làm mũi dùi để tố cáo Kitô giáo vì đã gây ra sự tàn phá vũ trụ. Theo họ, các tín đồ Kitô giáo coi việc khai thác thiên nhiên và việc sinh sản như là mệnh lệnh của Chúa; vì vậy mà họ phải chịu trách nhiệm trước những sự tàn phá tài nguyên thiên nhiên và sức sống. Cần phải thay thế não trạng khai thác thiên nhiên bằng não trạng kính cẩn hòa đồng với thiên nhiên.

Thoạt tiên các lời tố cáo đã gây ra cho thần học một sự choáng váng, vì cảm thấy mình bị đối xử cách bất công. Người ta tự hỏi tại sao nhóm sinh thái không tấn công thuyết mác xít trước, bởi vì chính thuyết này đã đề cao tương lai huy hoàng của nhân loại dựa vào tiến bộ của lao động kỹ thuật. Người ta cũng đã lật lại những trang Kinh thánh để chứng minh rằng Kitô giáo không hề cho phép con người phá hủy thiên nhiên. Thí dụ trong Cựu ước, sách Lêvi chương 25,2-5 đã buộc sau 7 năm thì phải ngưng việc canh tác trên cùng một mảnh đất đai; còn đối với con người và súc vật thì sau 6 ngày làm việc thì luật buộc phải dành 1 ngày nghỉ ngơi (Xh 23,12). Sách Sáng thế 2,15 nói tới việc con người phải "săn sóc đất đai" chứ không phải là khai thác bừa bãi. Con người chỉ là người quản lý đất đai; còn chủ tể là chính Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải chỉ có ra luật lao động cho con người, nhưng còn buộc con người nghỉ ngơi vào ngày thứ 7, không những là để dưỡng sức mà còn để săn sóc phần tâm linh qua việc tham dự phụng vụ ca khen Chúa. Các thánh vịnh đã cho thấy rằng Kinh thánh muốn cho con người nhìn ngắm vũ trụ như là phản ánh tình yêu của Chúa, chứ không phải chỉ là một khối đất đá vô tri giác tha hồ khai thác.

Sau những phút bàng hoàng vì bị tấn công bất ngờ, dần dần các nhà thần học đã lấy lại bình tĩnh để trả lời cho những quan tâm chính đáng của sinh thái học. Khoa sinh thái học nhắc nhở các nhà chính trị cũng như các nhà khoa học rằng việc theo đuổi sự phát triển khoa học và kỹ thuật vô giới hạn là một ảo tưởng. Thế giới này có giới hạn của nó; vì vậy việc khai thác nó cũng mang tính cách giới hạn. Cái giới hạn thứ nhất cần phải đặt ra là giới hạn luân lý. Các kế hoạch phát triển không thể chỉ dựa theo các định luật của kinh tế chính trị, nhưng tiên vàn phải được điều hành bởi các quy tắc luân lý. Luân lý mang lại sự giải phóng đích thực cho con người, chứ không phải là cái ách quàng vào cổ con người. Thực vậy, ngày nào mà con người muốn gạt bỏ luân lý ra một bên thì sẽ gây cảnh tượng là chính con người tiêu diệt con người: người mạnh đè ép người yếu, rồi đến lượt các người hùng cũng quay ra thanh toán lẫn nhau!

Tuy nhiên, cần phải tiến thêm một bước nữa để thử hỏi: khi nói tới luân lý thì phải hiểu luân lý nào? lấy cái gì làm tiêu chuẩn phân biệt điều tốt với điều xấu? Đối với Kitô giáo, tiêu chuẩn luân lý chỉ có thể tìm thấy nơi kế hoạch của Đấng Tạo hóa. Dĩ nhiên, không dễ gì những người vô thần hay những tín đồ các tôn giáo khác sẽ chấp nhận điều đó. Dù sao đi nữa, các Kitô hữu cũng cần ý thức rằng chính mình cũng chẳng hơn gì người vô thần trong việc tuân theo luật của Đấng Tạo hóa. Thực vậy, khi đọc lại những đoạn Kinh thánh về sự tạo dựng, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa đã trao cho con người việc "bá chủ mặt đất" (St 1,28): điều đó không có nghĩa là con người được toàn quyền lạm dụng bừa bãi thiên nhiên. Con người cần phải biết đối xử với thiên nhiên cũng giống như Thiên Chúa: Ngài đã tạo dựng nó do tình thương và chăm sóc nó cách âu yếm. Hơn thế nữa, Thiên Chúa không hề trao cho con người quyền định đoạt về tính cách luân lý của hành vi: con người không hề lãnh được quyền "biết lành biết dữ", để có thể tráo ngược trật tự (gọi điều xấu là tốt, và ngược lại). Con người cũng không có quyền thanh toán tha nhân, coi tha nhân như đối thủ cần loại trừ kiểu như trường hợp của Cainô. Trong Tân ước,thánh Phaolô đã nói tới sự liên đới giữa con người với tạo vật trong thư gửi Rôma, chương 8 câu 19-22: vì tội lỗi con người đã lôi kéo thụ tạo vào vòng nô lệ; chúng trông mong cho con người được cứu chuộc ngõ hầu chúng cũng được giải thoát.

Những chiều hướng này không còn phải là những suy tư của vài nhà thần học, nhưng đã đi vào giáo huấn của Giáo hội. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã nói tới sự liên đới giữa con người với tất cả các loài thụ tạo ở số 344. Đặc biệt khi giải thích giới răn thứ bảy, các số 2415-2417 nói tới nghĩa vụ phải tôn trọng sự toàn vẹn của tạo vật: "Việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên không được tách rời khỏi việc tôn trọng các yêu sách luân lý. Sự bá chủ của con người trên các vật vô tri giác và trên các sinh vật khác ... không có tính cách tuyệt đối; nó cần phải được đo lường bằng mối quan tâm tới phẩm chất của sự sống tha nhân, bao gồm cả sự sống của các thế hệ tương lai". Thực ra, mối nguy cơ của sự phát triển kỹ nghệ bừa bãi đã được các Đức Giáo hoàng nói tới trong các văn kiện về Học thuyết xã hội, thí dụ: thông điệp Mater et Magistra (của đức Gioan XXIII, 15-5-1961, số 196-197), tông thư Octogesima adveniens (của đức Phaolô VI, 14-5-1971, số 21), thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (của đức Gioan Phaolo II, 30-12-1987, số 34). Trước đó, vào năm 1979, Đức Gioan Phaolô II đã đặt thánh Phanxicô Assisi làm bổn mạng của các nhà sinh thái (tông thư Inter sanctos: AAS 71,1979,1509 s). Kế đó, Ngài đã dành cho ngày Thế giới hòa bình năm 1990 chủ đề là "Hòa bình với Chúa, hòa bình với toàn thể tạo vật". Vấn đề sinh thái được bàn rộng trong thông điệp Centesimus Annus (1-5-1991) số 37-39: ngoài "sinh thái thiên nhiên", Đức Gioan Phaolo II còn nói tới "sinh thái nhân bản", nghĩa là khung cảnh luân lý đạo đức nữa.

Kết luận, chúng ta có thể thấy rằng thần học về sự tạo dựng, từ lãnh vực cổ truyền thuộc tín lý, nay đã được mở rộng sang những hệ luận luân lý về những bổn phận của con người đối với tạo vật. Thực ra, nói cho cùng, nếu mà mối liên hệ giữa con người với tạo vật mà tốt đẹp thì người đầu tiên hưởng thụ hậu quả là chính con người.

PHẦN THỨ NĂM: Những vấn đề mới của Thần học về sự tạo dựng


Trong những năm gần đây, thần học về sự tạo dựng đã mở rộng tới những chiều kích mới. Có tác giả thì bàn về sự tạo dựng trong môn thần học về con người (anthropologia theologica), xét vì theo Kinh thánh, sự tạo dựng vũ trụ nhắm tới con người, chóp đỉnh của các loài thụ tạo. Theo bối cảnh này, thần học về con người bao gồm những mục sau đây: sự tạo dựng; sự sa ngã và ơn thánh cứu chuộc; cánh chung. Còn những tác giả muốn duy trì đường lối cổ truyền (coi thần học về sự tạo dựng như một thiên riêng biệt) thì cũng mở thêm những nhãn giới mới: một đàng tìm cách đưa vào thần học những chiều kích Kitô mà Tân ước đã nói tới; đàng khác, tìm cách đối thoại với những khoa học hiện đại, cuộc đối thoại giữa đức tin với lý trí.

Phần này điểm qua một chiều hướng mới về thần học tạo dựng khi đặt nó trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa; tiếp đến là những câu hỏi được đặt ra cho sự tạo dựng trong lãnh vực khoa học thực nghiệm.

1.Sự tạo dựng trong viễn ảnh Ba Ngôi Thiên Chua.

Kinh thánh không chỉ nói về sự tạo dựng ở chương đầu của Sách Sáng thế, nhưng kéo dài suốt Cựu ước qua Tân ước cho tới những chương cuối của Sách Khải huyền. Theo bối cảnh của Kinh thánh, sự tạo dựng được gắn liền với lịch sử cứu rỗi cũng như gắn liền với mạc khải về Thiên Chúa. Cựu ước nói tới Thiên Chúa tạo dựng bằng lời phán ra. Thánh Gioan đã coi lời của Chúa là "Ngôi Lời", Lời tạo dựng cũng là Lời nhập thể mang lại cho chúng ta ân sủng và chân lý. Thánh Phaolô nới đức Kitô như trưởng tử của mọi loài thọ sinh: "mọi vật được dựng nên vì Người và cho Người" (Cl 1,15-16). Sách Sáng thế cũng đã nói tới thần khí của Thiên Chúa hiện diện lúc tạo dựng (St 1,2): thần khí ấy đem lại sức sống cho các sinh linh (Tv 33,6; 51,12; 104, 29-30) và cũng là thần khí thổi lên các vị cứu tinh của Israel (Ds 11,17; Tl 3,10; 6,34 ..). Sang Tân ước, thần khí của Chúa đã được tỏ ra như một ngôi vị. Chính Thánh Thần là chủ động của sự tái tạo dựng trong ơn thánh: Ngài là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, đặc biệt sự sống bất diệt qua việc tha tội và dẫn Hội thánh tới sự sống trường sinh. Sự tạo dựng được coi như sự thông ban tình thương dạt dào vô biên vốn có từ muôn thuở trong lòng Ba Ngôi Thiên Chúa.

Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế "Vui mừng và Hy vọng", đã nhiều lần nêu bật mối liên hệ giữa đức Kitô với công cuộc tạo dựng (số 22; 32; 38-39; 45). Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đánh dấu bước tiến của thần học sau công đồng khi bàn tới sự tạo dựng như là công trình của toàn thể Ba Ngôi Thiên Chúa (số 290-292).

2. Đức tin về Thiên Chúa tạo dựng trước những thách đố hiện đại

Chúng ta thấy rằng đức tin về Thiên Chúa tạo dựng không phải chỉ là một lời tuyên xưng trừu tượng, nhưng mang rất nhiều hậu quả thực tiễn cho cuộc sống. Mặt khác, chúng ta cũng thấy rằng đức tin ấy gặp nhiều thách đố về lý thuyết cũng như về thực hành. Dưới khía cạnh thực hành, có lẽ thách đố nặng nề nhất là sự hiện diện của sự dữ trên đời này bởi vì nó đi ngược với niềm xác tín về Thiên Chúa đã dựng nên mọi vật tốt lành, và không ngừng săn sóc chúng. Khuôn khổ của bài này không cho phép chúng tôi đi sâu vào khía cạnh đó.

Xét về mặt lý thuyết thì chúng ta đã thấy rằng ngay từ những thế kỷ đầu tiên, đức tin về sự tạo dựng đã gặp phải những thách đố do học thuyết phiếm thần và nhị nguyên. Vào thời cận đại, lòng tin ấy gặp những thách đố mới khi mà xem ra những trang sách của Kinh thánh nói về sự tạo dựng vũ trụ không phù hợp với những dữ kiện của khoa thiên văn, vật lý, cổ sử, sinh học. Sự đối thoại giữa thần học với các môn khoa học hiện đại lại càng trở thành khó khăn hơn khi mà đôi bên không dùng chung một ngôn ngữ. Thực vậy, ngôn ngữ của thần học đứng trên bình diện siêu hình (nguyên nhân, hữu thể) còn các khoa học hiện đại thì phát biểu bằng các công thức toán học. Khoa học thực nghiệm đi tới kết luận dựa trên sự quan sát các hiện tượng đã xảy ra, chứ không muốn biết tới những khái niệm siêu hình không thể kiểm chứng.

Phải thành thực thú nhận rằng trong quá khứ, nhiều đụng độ đã xảy ra giữa thần học và khoa học thực nghiệm đã bắt nguồn ở chỗ bên nào cũng muốn nắm giữ vai trò bá quyền chân lý; hay nói đúng hơn, cả đôi bên không chấp nhận có những phương pháp khác nhau trong việc sưu tầm và phát biểu chân lý. May thay, trong vòng hai thế kỷ 19 và 20, việc nghiên cứu Kinh thánh cũng như việc nghiên cứu khoa học đã tiến bo rất nhiều.

Về mặt chú giải Kinh thánh, chúng ta biết rằng không thể phân tích các chương đầu của Sách Sáng thế với những dụng cụ áp dụng cho các bản văn sử học và khoa học ngày nay, xét vì Sách Sáng thế mang một thể văn riêng biệt. Về phía khoa học vật lý, lý thuyết tất định (déterminisme) của P. Laplace, I. Newton đã nhường chỗ cho thuyết vô định (indéterminisme) của W. Heisenberg, M. Plank, A. Einstein. Những định luật vật lý chỉ là những phát biểu của nhà khoa học dựa trên sự quan sát các hiện tượng, chứ các hiện tượng không nhất thiết phải tuân theo một định luật do nhà khoa học đặt ra! Có người cho rằng đó là sự ngẫu nhiên tình cờ mà khoa học đã không lường. Dù sao đi nữa, phải nhận rằng có nhiều đường lối khác nhau để giải thích một hiện tượng. Mỗi nhà khoa học cũng có một quan điểm triết học (nếu không nói là ý thức hệ) khi phân tích thực tại. Riêng về nguồn gốc và tận cùng của vũ trụ, có ít là bốn quan điểm khác nhau trong ngành vũ trụ học (cosmology).

a. Vũ trụ này có một khởi điểm, từ một sự bùng nổ vĩ đại (big bang) từ một hạt nhân nguyên thủy. Tuy nhiên, sự phát nổ không có tính cách vô hạn. Nói cách khác, vũ trụ này có cùng tận. Sự tận cùng được diễn tả như là "big crunch".

b. Vũ trụ này có một khởi điểm (big bang) nhưng với sự phát triển vô hạn định.

c. Vũ trụ này không phải chỉ có một khởi điểm nhưng đã có nhiều khởi điểm và cùng tận tiếp nối nhau.

d. Vũ trụ này ở trong trạng thái bền vững (Steady State), chẳng có bùng nổ cũng chẳng có cùng tận.

Ngày nay, chủ trương thứ bốn coi như đã bị gạt, vì nó trái ngược với những quan sát của khoa vật lý học thiên thể (astrophysics) và vũ trụ học (cosmology). Còn ba thuyết trước, tuy với những dạng thức khác biệt, nhưng chấp nhận rằng vũ trụ này có một khởi điểm (big bang). Tuy nhiên, ít nhà vật lý học dám tiến thêm bước nữa để đặt câu hỏi: thế thì trước cái giây phút big bang có cái gì không? tại sao mà đột nhiên nó bùng nổ? Chắc chắn rằng vật lý học không trả lời nổi cho câu hỏi đó; hay nói đúng hơn, câu hỏi đó sẽ dẫn tới những vấn đề thần học về Đấng Tạo hóa, một vấn đề mà nhiều nhà vật lý học sợ nói tới. Cũng vậy, họ cũng sợ khi nói tới sự bùng nổ và phát triển của năng lượng sẽ có lúc kết thúc, bởi vì nó sẽ đưa tới những câu hỏi thần học về một Quyền năng cao cả hơn vật chất. Hơn thế nữa, sự kết thúc các cuộc phát triển sẽ gợi lên câu hỏi về mục đích, cứu cánh của sự phát triển, nếu không muốn rơi vào kết luận phi lý là tất cả các hiện tượng đều xảy ra do tình cờ ngẫu nhiên.

Thiết tưởng cũng nên biết là thuyết big bang manh nha từ năm 1922 ở bên Nga do Aleksandr Aleksandrovich Friedmann (1888-1925), khi ông chứng minh rằng vũ trụ này phát xuất từ một điểm thời gian và không gian: nói khác đi, chỉ có một chứ không có nhiều vũ trụ. Tiếc rằng thuyết của ông ta không gây tiếng vang cho lắm bên Tây phương. Cũng vào thời đó, một nhà vật lý người Bỉ, linh mục Georges Lemaitre (1894-1966) đã đạt tới những kết luận tương tự. Thuyết của linh mục được nhà vật lý người Nga George Gamow đặt tên cho là "big bang". Những cuộc quan sát thiên văn của hai nhà vật lý Hoa kỳ Arno Penzias và Robert Wilson (Nobel vật lý năm 1978) củng cố thuyết đó, và họ cho rằng hiện tựơng big bang xảy ra cách đây khoảng 15 tỉ năm.

Người ta thấy rằng ngày nay có những cơ sở thuận lợi cho cuộc đối thoại giữa thần học với vật lý học. Các nhà vật lý học dần dần phải xét lại phương pháp làm việc của mình: phải chăng nhà vật lý chỉ dừng lại ở chỗ quan sát hiện tượng vật chất hay còn phải đi sâu hơn nữa để tìm hiểu cái "ý nghĩa" của các chuyển động? Vật chất là gì? Nói cách khác, liệu các nhà khoa học có thể không cần biết tới những khái niệm triết học và thần học hay không?

Nói tóm lại, chúng ta nên lưu ý ba điểm:

* Thần học về sự tạo dựng không phải chỉ giới hạn vào việc nghiên cứu lúc khởi nguyên của vũ trụ mà còn kéo dài của việc quan phòng và cứu rỗi.

* Thần học cũng không bị ràng buộc bởi hình thức nào của thuyết "big bang".

* Công đồng Vaticano II chấp nhận những phương pháp khác nhau để khám phá chân lý, và không thể xảy ra sự mâu thuẫn giữa đức tin và khoa học bởi vì cả hai đều phát xuất từ một nguồn duy nhất là Thiên Chúa (Hiến chế "Vui mừng và Hy vọng" số 36.59).

PHẦN THỨ SÁU: Ý nghĩa của lòng tin về Thiên Chúa tạo dựng


Phần này tìm hiểu nội dung của chân lý về sự tạo dựng. Như chúng ta đã biết, thần học về sự tạo dựng không thể rút gọn vào vấn đề siêu hình bàn về sự xuất hiện của vũ trụ, nhưng cần phải mở rộng nhãn giới tới toàn thể lịch sử cứu rỗi của Thiên Chúa, với đức Kitô là trung tâm và đích điểm. Chúng ta sẽ phân tích thần học về sự tạo dựng dưới ba khía cạnh sau: 1) Sự kiện; 2) Cách thức; 3) Mục tiêu.

I.Sự kiện


Khi ôn lại lịch sử của Giáo hội, chúng ta thấy rằng sự tuyên xưng chân lý về việc Thiên Chúa tạo dựng đã gặp phải hai trào lưu đối nghịch. Một đàng là thuyết phiếm thần (pantheismus) đồng hóa Thiên Chúa với vũ trụ. Đàng khác là thuyết nhị nguyên (dualismus) muốn đặt vũ trụ vật chất ra khỏi tầm kiểm soát của Thiên Chúa, bởi vì theo họ, vật chất tự bản chất là xấu xa cho nên không thể nào do chính Thiên Chúa tốt lành đã làm ra song là do một Thần khác.

Đối lại với hai trào lưu đó, đức tin Kitô giáo tuyên xưng rằng vũ trụ này do Thiên Chúa làm ra. Điều đó hàm ngụ rằng:

1) Vũ trụ này không phải là Thiên Chúa: Ngài khác biệt với vũ trụ, cũng tựa như tác giả thì khác biệt (chứ không đồng nhất) với tác phẩm của mình.

2) Đồng thời vũ trụ này do Thiên Chúa làm ra do tình yêu của Ngài. Sự lệ thuộc của vũ trụ vào Thiên Chúa không phải chỉ xảy ra vào lúc khai nguyên nhưng có tính cách liên tục. Chúng ta đừng quan niệm sự tạo dựng như ông thợ làm đồng hồ: chỉ cần sao xếp đặt các máy móc bộ phận cho thật khéo, rồi khi đã xong thì đồng hồ tự động chạy mà không cần ông thợ phải để ý tới nữa. Không, sự tạo dựng thì khác: vũ trụ này tự mình không có sự hiện hữu, nhưng mà nó hoàn toàn phải lệ thuộc vào Thiên Chúa cách liên lỉ.

Những suy tư vừa nói xem ra quá siêu hình trừu tượng, chẳng có ăn thua gì tới đời sống! Tuy nhiên khi đi sâu vào thực chất, chúng ta thấy rằng chân lý này mang theo rất nhiều hệ luận cho cuộc sống.

a. Khi tuyên xưng rằng vũ trụ này không phải là Thiên Chúa (chống lại thuyết phiếm thần), Kitô giáo đã mở đường cho sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Thực vậy, khi đối chiếu với các nền văn hóa và các tôn giáo trên hoàn cầu, người ta nhận thấy rằng sở dĩ khoa học và kỹ thuật tiến được là nhờ Kitô giáo. Tại sao vậy? Lý do tại vì nhiều tôn giáo gán cho tinh tú, nắng mưa, sông núi tính cách thần linh. Từ đó, con người sợ sệt khi đứng trước thiên nhiên vũ trụ, không dám đụng đậy tới Thổ thần Địa thần, thần Hà bá vv. Với một tâm trạng như vậy thì làm sao mà dám khai phá rừng rú, xông pha mạo hiểm? Đối lại, đức tin Kitô giáo nói rằng cái vũ trụ này không phải là thần thánh gì cả: nó do Thiên Chúa đã làm ra và ban cho con người; vì vậy đừng sợ đụng tới nó!

b. Khi tuyên xưng rằng vũ trụ này do bàn tay Thiên Chúa tạo thành (chống lại thuyết nhị nguyên), người tín hữu nhận được niềm lạc quan hy vọng. Thực vậy, một khi biết rằng tất cả những gì Chúa làm ra đều tốt thì con người sẽ cảm thấy tự tín, tìm cách khám phá ra lẽ tốt của các sự vật, tìm hiểu những định luật điều hành bản chất và vận hành của chúng. Ngược lại, nếu đặt vũ trụ vật chất ở trong tay của một Ác Thần, thì chắc chắn con người sẽ rơi vào tuyệt vọng bởi vì không thể lường trước được những trò chơi xấu của ông ta!

c. Lòng tin vào Thiên Chúa tạo thành không đi ngược với thuyết tiến hóa. Thiên Chúa không phải là một ông kiến trúc sư, xây xong cái nhà rồi thì đi nghỉ mát! Thần học về sự tạo dựng chỉ muốn nói rằng vũ trụ có lúc đã không hiện hữu, và rồi Thiên Chúa đã cho nó hiện hữu. Sự tạo dựng không hàm ngụ rằng vũ trụ đã được hoàn bị vào lúc bắt đầu hiện hữu! Trái lại là khác, mạc khải Kitô giáo cho thấy sự hoàn bị chỉ có ở đích điểm vào thời cánh chung.

d. Hiểu như vậy, chúng ta cần phải gắn liền lòng tin nơi Thiên Chúa tạo dựng với lòng tin vào việc Quan phòng. Thánh Tôma Aquinô đã quả quyết rằng sự quan phòng chính là sự tạo dựng kéo dài (Sum. Theol.I, q.104, a.1). Ngài tiếp tục săn sóc duy trì những gì Ngài đã làm nên. Triết học diễn tả tư tưởng đó như là duy trì sự hiện hữu (conservatio in esse). Thánh vịnh 104 dùng hình ảnh bình dân hơn: "Thiên Chúa thổi sinh khí cho vạn vật được sống; Ngài mà rút hơi thì chúng tan tành". Dĩ nhiên, để tránh những hiểu lầm về sự lệ thuộc vào Thiên Chúa, chúng ta cần bổ túc hình ảnh đó với những tư tưởng của Phúc âm nói Thiên Chúa là Cha săn sóc cho con cái, thậm chí đếm từng sợi tóc trên đầu. Thực vậy, không thiếu người đã quan niệm sự lệ thuộc một cách độc đoán kiểu như cá nằm trên thớt, ra như con người chỉ là trò chơi trong bàn tay của Chúa! Không, Thiên Chúa không coi chúng ta như đồ chơi cũng chẳng coi chúng ta như đối thủ: Ngài ban cho con người lý trí và tự do để cùng tham gia vào công cuộc tạo dựng, bắt đầu bằng chính việc điều khiển cuộc đời của mỗi người với lương tâm trách nhiệm. Niềm tin vào Thiên Chúa tạo dựng và quan phòng đi đôi với niềm tin về trách nhiệm tự do của con người, nền tảng của thần học luân lý cũng như thần học về lao động.

e.Trên thực tế, lòng tin vào Thiên Chúa tạo dựng và quan phòng bị thử thách nặng nề vào lúc người tín hữu gặp phải sự dữ ở trên đời này. Thuyết nhị nguyên ra đời cũng vì muốn giải thoát trách nhiệm cho Thiên Chúa. Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo đã đề cập tới vấn đề này ở các số 309-314. Dù sao, như chúng ta đã biết, thay vì giải thích nguồn gốc sự dũ bằng cách gán cho một thần dữ, mạc khải Kitô giáo đi tới một điểm mà lý trí con người không thể tưởng tượng nổi, đó là: chính Thiên Chúa đã lãnh nhận đau khổ nơi đức Kitô. Nơi đức Kitô, khoảng cách giữa Thiên Chúa và tạo vật đã bị xóa bỏ bởi vì Thiên Chúa đã trở thành một thụ tạo, chia sẻ số phận của loài thụ tạo.

II. Cách thức


Bàn về cách thức của việc tạo dựng, thần học nêu bật hai đặc điểm: 1/ Việc tạo dựng là một hành vi tự do của Thiên Chúa; 2/ Vũ trụ này được tạo dựng trong thời gian.

1/ Về điểm thứ nhất, thần học khẳng định rằng Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ do tình thương dạt dào của Ngài. Không ai cưỡng bách Ngài phải tạo dựng. Ngài cũng không bị một động lực nội tại nào thúc bách phải tạo dựng, ra như nếu không có vũ trụ thì Ngài sẽ thiếu thốn cái gì đó. Điều này được công đồng Vaticano I khẳng định trong hiến chế tín lý "Dei Filius" (can.5: Dz-Sch 3205).

2/ Về điểm thứ hai, vũ trụ được tạo dựng trong thời gian: điều này có nghĩa là vũ trụ có khởi điểm chứ không hằng hữu. Khởi điểm của vũ trụ cũng là khởi điểm của thời gian và của lịch sử. Quan điểm của Kitô giáo khác với quan điểm của khá nhiều tôn giáo cổ truyền, khi họ coi rằng vũ trụ như bánh xe quay tròn, xong chu kỳ này lại tiếp sang chu kỳ khác. Một quan niệm luân hồi như vậy dễ rơi vào vòng bi quan, bởi vì thường chỉ tìm thấy sự toàn hảo ở thời nguyên thủy, còn thời gian là một chuỗi những sa đọa. Còn quan điểm về lịch sử của mạc khải Kitô giáo thì đặt lý tưởng tòan thiện vào thời cánh chung: lịch sử là một cuộc tiến tới, chứ không phải là thụt lùi.

III. Mục tiêu


Tại sao Chúa dựng nên vũ trụ? tạo dựng để làm gì? Câu hỏi này phần nào đã được trả lời rồi: Ngài dựng nên vũ trụ vì muốn thông ban sự thiện hảo tốt lành của mình. Ngài không tạo dựng vũ trụ vì bị thúc bách, cũng không phải vì để giải trí. Dù sao thì chúng ta đừng nên phóng dọi tâm tư thiển cận của mình cho Thiên Chúa: khi Kinh thánh nói rằng Ngài tạo thành vũ trụ để tỏ lộ vinh quang của Ngài, thì xin đừng ai hiểu tiếng "vinh quang" theo nghĩa là hám danh vọng! "Vinh quang" của Thiên Chúa chính là sự tỏa lộ cái mà Ngài đã có rồi, tức là chính bản tính uy nghi, nhân ái, khoan dung, vv. Nhờ sự chiếu tỏa ấy, chúng ta được thông dự vào sự thiện hảo của Ngài. Kinh thánh nói rằng Thiên Chúa đã muốn mời gọi chúng ta vào chia sẻ hạnh phúc với Ngài. Do đó, người tín hữu tìm thấy một ý nghĩa cho cuộc sống của mình: con người xuất hiện trên đời này không phải do số phận may rủi tình cờ, nhưng là kết quả của một tình yêu ước muốn cho mình được hạnh phúc.