Thứ Ba, 5 tháng 12, 2023

THẦN HỌC GIẢI PHÓNG : LỊCH SỬ VÀ PHÁT TRIỂN

Thời sự Thần học - Số 94, Tháng 11 Năm 2021, tr. 15-51.

 _Carlo Molari_ 

I. Thời kỳ thai nghén
II. Các giai đoạn: 1/ bắt đầu; 2/ củng cố; 3/ đàn áp; 4/ mở rộng
III. Hứng khởi và nền tảng Kinh Thánh
IV. Phương pháp
V. Quy chiếu về người nghèo: mầu nhiệm Đức Kitô và Giáo hội
VI. Chứng tá của các vị tử đạo
VII. Sự mở rộng THGP sang các lãnh vực và đại lục khác
VIII. Phụ thêm. ĐTC Phanxicô với THGP
Tác giả nguyên là giáo sư của nhiều Đại học Giáo hoàng Roma (Urbaniana, Lateranum), biên tập viên tạp chí CONCILIUM
Nguồn: La teologia della liberazione: storia e sviluppi attuali. Đây một bài thuyết trình tại Fano (Italia) ngày 6/6/2014, khai triển mục từ “Théologie de la libération” đăng trên Dictionnaire critique de théologie do Jean-Yves Lacoste chủ biên (Paris: Presses Universitaires de France, 1999).
https://www.associazioneapito.org/app/download/11408725612/La+teologia+della+liberazione....+Carlo+Molari.pdf?t=1489146551
Chú thích của người dịch: Nhiều từ ngữ Tây Ban Nha có thể chuyển sang tiếng Việt bằng nhiều từ khác nhau, vì thế chúng tôi phải thích ứng tùy theo mạch văn: Liberación có thể dịch là “giải phóng” hay “giải thoát”; Pueblo có thể dịch là “nhân dân, dân tộc, dân chúng”, cũng như popular có thể dịch là “nhân dân, bình dân, dân gian”; Pobre có thể dịch là “nghèo khổ, bần cùng”; comunidad: “cộng đoàn” hay “cộng đồng”.
Chữ viết tắt: THGP = thần học giải phóng

Thần học giải phóng ám chỉ một phong trào thần học ra đời ở Mỹ châu Latinh vào thập niên 60 của thế kỷ XX do kinh nghiệm sống đức tin trong một khung cảnh xã hội và tôn giáo của cộng đoàn. Bầu khí lịch sử ra đời của nó là phong trào giải phóng thuộc địa ở thế giới thứ ba vào hậu bán thế kỷ XX, cũng như những hy vọng được Công đồng Vaticanô II (1962-1965) gợi lên trong các giáo hội Kitô giáo. Yêu sách căn bản là loan báo Tin Mừng cho người nghèo, và lên tiếng thay cho những thành phần bị xã hội gạt bỏ, mà chính Công đồng cũng đã tìm cách đáp ứng. Nhiều giáo hội Công giáo cũng như Tin lành tìm ra những phương hướng mới đề làm chứng cho Tin Mừng giữa những lớp người bị gạt bỏ và loại trừ ở châu Mỹ Latinh. Bầu khí tâm linh này, được nuôi dưỡng bởi đức tin vào sức mạnh giải phóng của Tin Mừng Chúa Kitô, đã mở ra một suy tư thần học sâu rộng với những âm vang rộng lớn trong lãnh vực văn hóa và tôn giáo. Không thể nào mô tả THGP một cách dứt khoát bởi vì nó là một tiến trình còn đang tiếp diễn. Tuy vậy, nó cũng có vài yếu tố vững bền giữa những hoàn cảnh biến đổi. Enrico Dussel đã định nghĩa “hạt nhân” của nó như thế này: “đó là một nền thần học khởi đi từ việc chọn lựa những người nghèo, để xây dựng một cách tích cực triều đại Thiên Chúa ở đây và ngay bây giờ”[1].

Như vậy, ngày nay, THGP ám chỉ một cách thức cụ thể để làm thần học, với đặc trưng là quan tâm đến những điều kiện xã hội của áp bức, nghèo khó và gạt bỏ, để đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn và đối chiếu với lịch sử Kinh Thánh. Như vậy, nó được định hình như là một thần học của ơn cứu độ Kitô giáo nhắm tới sự vượt thắng những sự dữ luân lý và xã hội đang đè nặng trên nhân loại, ngõ hầu quảng bá sự tự do của các con cái Thiên Chúa.

Hiếm khi một phong trào thần học đã ảnh hưởng đến xã hội một cách rộng rãi và sâu xa như là THGP của châu Mỹ Latinh. Nó thu hút dư luận quần chúng cũng như gợi lên những suy tư cho các trung tâm tôn giáo và chính trị khác biệt nhau[2]. Trong một thời gian ngắn, nó đã gợi lên nhiều hứng khởi và chống đối dữ dội, gây nhiều bận tâm cho các nhà lãnh đạo quốc gia, các tổ chức kinh tế thế giới, các cơ cấu xã hội, và một vài tổ chức này đã lên kế hoạch để ngăn chặn sự lan truyền của nó.

I. Bối cảnh và sự thai nghén THGP châu Mỹ Latinh


Bối cảnh xã hội đã thúc đẩy cuộc khởi đầu THGP, theo Gustavo Gutierrez, một trong những người sáng lập, “đã và chắc chắn sẽ còn là cảnh bần cùng phi nhân của đại lục chúng ta, được đọc nó dưới ánh sáng đức tin”[3] . Việc thâm tín rằng cảnh bần cùng là kết quả của những bất công trong những tương quan quốc tế là điều đã được đề cập trong nội bộ Giáo hội từ lâu rồi. Nhiều cuộc phân tích và kinh nghiệm đồng quy đã “đưa Giáo hội châu Mỹ Latinh vào thập niên 50 (thế kỷ XX) đến một cái nhìn tân tiến hơn, kỹ thuật hơn, bạo dạn hơn về những vấn đề đè nặng trên lục địa. Càng ngày càng thấy rõ là nguyên nhân của sự bần cùng thường xuyên và đại chúng không chỉ do những chênh lệch xã hội có thể điều chỉnh bằng những cuộc cải cách ngoại biên, nhưng là do những tội ác nội tại của những cơ cấu chính trị xã hội bất công”[4]. Tại nhiều nơi, ý thức này đã đưa đến cuộc cách mạng chống lại các cơ cấu của chủ nghĩa tư bản quốc tế, vốn được các chính quyền địa phương ủng hộ. Cuộc cách mạng tại Cuba là biểu hiện đầu tiên của phong trào ấy (1/1/1959)[5]. Sự gây ý thức của các dân tộc nghèo kém đã gợi lên “cuộc thức tỉnh của những người bị áp bức” và việc tổ chức những phong trào cách mạng (1/1/1959). Nhiều phần tử của các phong trào cách mạng được hướng dẫn bởi những xác tín của đức tin Kitô giáo. Trong việc suy tư chung, người ta thường sử dụng những dụng cụ của các khoa học xã hội, cách riêng các khuôn mẫu của thuyết mác-xít[6]. Giữa các suy tư và kinh nghiệm ấy, dần dần được phác thảo học thuyết của Gustavo Gutierrez, lúc ấy là tổng tuyên úy các phong trào sinh viên Peru, vào tháng 7 năm 1968, dưới danh hiệu “thần học của sự giải phóng”, một thuật ngữ dần dần trở thành tên gọi của sự suy tư mới trong thần học[7].

II. Các giai đoạn


Sau chặng khai sinh vừa được phác họa vắn tắt trên đây, chúng ta có thể phân biệt bốn chặng của THGP: bắt đầu phát triển (1968 Medellìn-1972); khó khăn và củng cố (1972-1979); đàn áp và mở rộng (1979 Puebla-1989); xét lại và quảng bá (1990 Aparecida-2007).

1. Giai đoạn khởi đầu (1968-1972)


Ngày mở đầu THGP thường được gắn kết với Đại Hội hàng giám mục Mỹ châu Latinh do CELAM tổ chức[8], họp tại Medellìn nước Colombia (từ 24 /8 đến 6/9/1968). Chủ đề là “Giáo hội trong sự biến chuyển châu Mỹ Latinh dưới ánh sáng của Công đồng”[9]. Những văn kiện chuẩn bị đã chứa đựng nhiều suy tư đặc trưng của thần học mới[10]. Những cuộc thảo luận và văn kiện chung kết đã nêu bật một vài đề tài căn bản: sự thăng tiến nhân bản và tương quan của nó với Vương quốc Thiên Chúa; việc loan báo Tin Mừng và sự phát triển đức tin; Giáo hội hữu hình và các cơ cấu. Phương pháp áp dụng (qua ba bước: xem – xét – làm) đã đưa các giám mục đến việc lắng nghe “tiếng kêu nức nở” của “hàng triệu người”, đang tìm kiếm một sự giải phóng mà không ai mang lại cho họ”. Các giám mục đón nhận sự đánh giá mà các nhà thần học mang lại: “nỗi lầm than loại bỏ hàng ngàn nhóm người là một sự bất công kêu thấu trời”. Vì thế ba lựa chọn chính yếu của Medellìn là: những người nghèo, như tiêu chuẩn cụ thể của những sự lựa chọn của Giáo hội; các cộng đoàn căn bản như công cụ hoạt động; và sự giải phóng toàn diện như điểm đến lịch sử cần nhắm tới. Có thể quả quyết chính xác rằng: “Ý tưởng giải phóng và thần học giải phóng đã nhận được một quy chế giáo hội trong Đại Hội Medellìn”[11].

Liền sau đó, THGP đã trải qua một thời kỳ sôi sục. Nhiều tác phẩm thần học đã được xuất bản[12]. Đồng thời nảy sinh ra nhiều hiệp hội linh mục và tu sĩ được gợi hứng từ THGP. Ở Argentina, Phong trào các linh mục cho thế giới thứ ba (1968); bên Peru là Văn phòng quốc gia đào tạo linh mục (ONIS); ở Colombia có nhóm Golconda, sau này đổi tên là SAL (các linh mục cho châu Mỹ Latinh). Về sau, ở Mexico nảy lên phong trào “Linh mục vì dân”; ở Chile, vào tháng 4 năm 1972, nhóm 80 đã tổ chức tại Santiago Chile, cuộc gặp gỡ đầu tiên của các Kitô hữu theo chủ nghĩa xã hội[13].

Vào tháng 7 cùng năm, từ ngày 8 đến 15, một cuộc gặp gỡ các nhà thần học châu Mỹ Latinh đã diễn ra tại El Escorial (Tây ban nha) về chủ đề: “Đức tin Kitô giáo và cuộc thay đổi xã hội tại châu Mỹ Latinh”. Họ trình bày cho các nhà thần học châu Âu một dự án muốn tái cấu trúc thần học dưới viễn tượng giải phóng để vượt qua thần học phát triển vốn thịnh hành lúc ấy, và sử dụng học thuyết về sự lệ thuộc[14]. Đây là chóp đỉnh của giai đoạn đầu, giai đoạn phát triển và bành trướng của THGP châu Mỹ Latinh. Nhưng chẳng bao lâu, những khó khăn ập đến.

2. Giai đoạn 2: những khó khăn và củng cố (1972-1979)


Thật vậy, vào tháng 11 năm 1972, tại phiên hội thường kỳ lần XIV của CELAM họp ở Sucre (Bolivia), một cuộc thay đổi đã xảy ra trong ban điều hành. Văn phòng thường vụ mới bắt đầu một chiến dịch chống đối THGP. Một vài trung tâm nghiên cứu và tổ chức mục vụ bị đóng cửa[15]. Nhiều hàng giám mục chống lại các nhà thần học giải phóng, cách riêng vì quan niệm của họ về “giáo hội nhân dân”, về tầm quan trọng dành cho kinh nghiệm xã hội trong việc suy tư đức tin, về sự công kích các cơ cấu chính trị của đại lục. Vào giai đoạn đó, tại châu Mỹ Latinh, nhiều cuộc đảo chính quân sự đã xảy ra, và một cuộc đàn áp dữ dội đã được tiến hành chống lại các phong trào cộng đồng cơ bản. Trong một vài năm, hàng trăm linh mục, tu sĩ và giáo dân đã bị thủ tiêu và kể cả nhiều giám mục cũng bị ngồi tù[16]. Trong thời gian ấy, các nhà thần học tiếp tục công việc suy tư, khởi đi từ tình trạng giam cầm và lưu đày mà một vài người đang phải trải qua. Trong những ngày ấy, Leonardo Boff đã viết: “Không còn chỗ cho niềm lạc quan của thập niên 60, khi có thể mơ ước một sự xúc tiến của cuộc giải phóng nhân dân”[17]. Rubem Alves ngậm ngùi nói: “Cuộc xuất hành mà chúng tôi mơ ước đã bị tan tành; thay vào đó là tình trạng lưu đày và nô lệ”[18]. Thế nhưng suy tư thần học đã có cơ hội để tổ chức lại cho có hệ thống hơn, và cách riêng là đào sâu thêm Giáo-hội-luận và Kitô-luận.

Vào cuối năm 1977, Ủy ban thần học quốc tế đã phát hành tuyên ngôn “Thăng tiến nhân bản và cứu độ Kitô giáo” kết thúc một cuộc nghiên cứu khởi sự từ năm 1974 về THGP[19]. Bản văn được kèm bốn bản tường trình của các thành viên ủy ban, về những khía cạnh khác nhau của THGP. Các soạn giả nhìn nhận giá trị của nó đối với Giáo hội, nhưng đồng thời cũng nêu bật một vài điểm phiến diện hoặc hàm hồ[20].

3. Giai đoạn ba: đàn áp và mở rộng (1979-1989)


Giai đoạn ba của THGP bắt đầu từ Đại hội các giám mục châu Mỹ Latinh diễn ra tại Puebla (Mexico), từ ngày 27/1 đến 12/2/1979, với chủ đề “Việc loan báo Tin Mừng trong hiện tại và tương lai của châu Mỹ Latinh”. Đại hội được ĐTC Gioan Phaolo II khai mạc với bài diễn từ trong đó ngài bày tỏ lập trường rõ rệt về các vấn đề công bằng xã hội, theo đường hướng của THGP. Ngài khuyến khích việc bảo vệ những quyền lợi con người và yêu cầu đương đầu với những nguyên nhân của sự kém phát triển. Tuy nhiên, ngài cũng nhắc đến một vài đề tài của Kitô luận và Giáo hội luận trong đó ngài tỏ ra dè dặt đối với các nhà thần học giải phóng[21].

Đại hội ghi nhận một cuộc đối đầu căng thẳng ngay giữa các giám mục. Không có nhà thần học nào tiêu biểu của thần học được mời tham dự cách chính thức, nhưng nhiều người đã tham dự với tư cách là chuyên viên cá nhân của các giám mục và đã hoạt động rất hữu hiệu. Trong văn kiện kết thúc, Đại hội khẳng định rằng: “Tất cả Giáo hội cần phải hoán cải để chọn lựa đứng về phía người nghèo, ngõ hầu giúp cho họ đạt được sự giải phóng toàn diện”[22]. Trên thực tế, mặc dù có nhiều tranh luận sôi nổi, Đại hội Puebla đã mang lại một sức mạnh và bảo đảm cho THGP. Cuối cùng, như J. Sobrino bình luận, Đại hội Puebla đã tái khẳng định những gì mà Medellìn đã khai mở[23].

Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, nhiều khó khăn được nêu lên từ phía CELAM. Nhưng cuộc bầu cử lần này đã tăng thêm những nhân vật chống đối THGP[24].

Trong giai đoạn này, giáo triều Roma bày tỏ quan ngại đối với những hướng đi của THGP. Bộ Giáo lý đức tin đã bắt đầu duyệt xét các tác phẩm của G. Gutierrez (1983/84) và L. Boff (1984/85). Những cuộc can thiệp đã gây tiếng vang lớn và lôi kéo chú ý đến quan điểm thần học của hai nhà thần học vừa nói. Những nhận xét đáng kể nhất liên quan đến quan niệm về giáo hội nhân dân, với nguy cơ sẽ gây ra chia rẽ sâu xa trong Giáo hội, và việc sử dụng các mô hình của chủ nghĩa mác-xít trong việc phân tích các hiện tượng xã hội, làm tiền đề cho suy tư thần học[25]. Vào tháng 9 năm 1984, Bộ Giáo lý đức tin đã phát hành một văn kiện nêu lên những khó khăn chính đối với THGP[26], nhưng không nêu lên đích danh tác giả nào[27]. Viễn ảnh hoàn toàn tiêu cực được kèm theo một lời hứa sẽ ban hành một huấn thị thứ hai để bổ túc. Văn kiện thứ hai được công bố hai năm sau, ngày 22/3/1986, với tựa đề: “Huấn thị về tự do Kitô giáo và giải phóng”[28]. Chính ĐTC Gioan Phaolo II, qua hồng y Bernardin Gantin, tổng trưởng bộ Giám mục, đã gửi một lá thư cho Hội đồng giám mục Brasil (CNBB) trong đó, trong mức độ phù hợp với giáo huấn của Tin Mừng, truyền thống sống động và huấn quyền ngàn đời của Giáo hội, “THGP không những là thích thời mà còn hữu ích và cần thiết nữa”[29].

Trong giai đoạn này, THGP có cơ hội để bành trướng và củng cố trong lãnh vực Kinh Thánh, mục vụ và tổ chức. Năm 1985, một tủ sách thần học mang tựa đề “Thần học và giải phóng” được đề xuất với 52 cuốn giáo trình[30]. Dự án này bị Bộ Giáo lý đức tin ngăn cản, nhưng từng cuốn riêng rẽ được xuất bản và được dịch ra nhiều ngôn ngữ.

4. Giai đoạn bốn: xét lại và quảng bá (1989-)


Giai đoạn này bắt đầu với cuộc xáo trộn văn hóa gây ra bởi biến cố bức tường Berlin sụp đổ (năm 1989). Các nhà thần học được tự do hơn để tiếp tục con đường đã đi từ nhiều năm trước và chứng tỏ sự độc lập với ý thức hệ mác-xít. Về phía các nhà lãnh đạo Giáo hội, nỗi lo sợ vì sử dụng những phân tích xã hội lấy từ thuyết mác-xít cũng giảm bớt; từ nay họ sẽ chú trọng hơn đến các khía cạnh thần học và mục vụ. Tuy vậy, tại một vài nơi, chính quyền vẫn tiếp tục các cuộc ám sát, chẳng hạn như vụ 6 tu sĩ dòng Tên tại đại học San Salvador (16/11/1989) cùng với hai nhân viên, trong số đó có cha viện trưởng, là người đồng chủ biên với Jon Sobrino của cuốn Tổng lược đạo lý và lịch sử của THGP mang tựa đề “Mysterium liberationis”[31], với sự cộng tác của những tác giả nổi tiếng không những về đạo lý mà cả về phương pháp thần học, về những ưu tiên luân lý, về tổ chức giáo hội, về tín ngưỡng dân gian, về thông diễn Kinh Thánh và linh đạo.

Đại Hội lần thứ IV của các giám mục châu Mỹ Latinh họp tại Santo Domingo từ 12 đến 18 tháng 10 năm 1992, để kỷ niệm 500 năm khám phá và loan báo Tin Mừng cho châu Mỹ, đã trở thành cơ hội để đề cập đến những chủ đề quen thuộc của THGP. Văn kiện kết thúc lặp lại việc lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo và nhắc lại các lần Đại Hội trước đây tại Medellìn và Puebla.

Đại Hội lần thứ V diễn ra tại đền thánh Đức Mẹ Aparecida (Brasil) từ ngày 13 đến 31 tháng 5 năm 2007 với chủ đề: “Những người môn đệ và thừa sai của Chúa Giêsu Kitô ngõ hầu các dân tộc chúng ta được sống”. Chủ đề được kèm theo câu Kinh Thánh: “Thầy là đường, chân lý và sự sống”. ĐTC Bênêđictô XVI đã khai mạc cuộc họp của các giám mục nhân chuyến du hành xuyên đại lục thứ nhất của triều giáo hoàng. Để chuẩn bị cho Đại hội này, trong suốt năm 2006, các giáo phận đã suy tư về chủ đề sắp bàn[32].

ĐTC Bênêđictô XVI đã đề cao “tín ngưỡng dân gian rất phong phú và sâu đậm, linh hồn của các dân tộc châu Mỹ Latinh” và coi đó như là “kho tàng quý giá của Giáo hội tại địa phương”, và yêu cầu hãy cổ võ và bảo vệ nó. Tín ngưỡng dân gian là một cách thức diễn tả đức tin dưới nhiều hình thức khác nhau trong mọi lãnh vực xã hội, vì thế đáng được tôn trọng, bởi vì lòng đạo đức này phản ánh lòng khao khát Thiên Chúa mà chỉ duy những người đơn sơ và khó nghèo mới nhận ra. Lòng đạo đức bình dân là một hình thức của đạo công giáo đã hội nhập văn hóa, trở nên một di sản của văn hóa châu Mỹ Latinh (DA 258). "Việc hành hương là cơ hội mà con người sống kinh nghiệm về mầu nhiệm của sự siêu việt của Thiên Chúa cũng như của Giáo hội. Tại các thánh điện, nhiều kẻ hành hương đã dấn thân quyết định những cam kết ảnh hưởng đến suốt đời. Những bức tường của thánh điện đã ghi nhớ biết bao nhiêu kỷ niệm của hoán cải, tha thứ và ơn lành được cả triệu người thuật lại" (DA 260).

Để kết thúc mục bàn về sự tiến triển lịch sử, nên nhớ rằng trong nội bộ của THGP có nhiều trào lưu khác nhau. J. C. Scannone phân biệt ba trào lưu: một trào lưu được gợi hứng từ phương pháp mác-xit để giải thích thực tại và khởi đi từ thực hành của những nhóm làm cách mạng; một trào lưu khởi đi từ việc thực hành đức tin Kitô giáo, và một trào lưu chú trọng đến văn hóa dân gian của châu Mỹ Latinh[33]. Sau cùng, cần thêm rằng THGP cũng đã thay đổi nhiều dọc theo các chặng đường tiến triển[34]. Gần đây, một số nhà thần học THGP đã mở rộng tầm suy tư đến những vấn đề mới được đặt ra do cuộc khủng hoảng môi trường, đối thoại với các tôn giáo[35].

III. Hứng khởi và nền tảng Thánh Kinh


“Giải phóng” (giải thoát) tương đương với các từ ngữ (động từ và danh từ) tiến Hy-lạp ελευτερόω, ελευτερύοµαι, ελευτερία, và các từ ngữ La-tinh redimere/redemptio được các Kitô hữu sử dụng trong Kinh Thánh, cùng với các từ ngữ liên quan đến ơn cứu độ (σωτηρία/salus), để ám chỉ công trình cứu chuộc của Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử dân tộc Israel, và hoàn tất trong cuộc đời Đức Giêsu Kitô.

Ngay từ đầu, đặc trưng của THGP là sự suy tư về kinh nghiệm đức tin của cộng đồng được nâng đỡ nhờ sự đối chiếu liên tục với Kinh Thánh. THGP đặt nền trên “tiềm lực giải phóng của Kinh Thánh, đặc biệt là biến cố xuất hành, sứ điệp giải phóng của Đức Giêsu ở Lc 4,18 t., sự quan tâm đến “những kẻ bé nhỏ nhất” trong Mt 25,31-45; sự tự do của con cái Thiên Chúa ở Gl 4,4tt; 5,1” [36].

Đặc biệt những trình thuật liên quan đến cuộc xuất hành của dân Israel khỏi cảnh nô lệ của Ai-cập và khỏi cảnh lưu đày ở Babilonia do quyết định của vua Cyrô (năm 528 trước CN), với việc tái thiết đền thờ và tường thành Giêrusalem, đã được đọc và suy niệm bởi các cộng đồng Kitô hữu đã cảm nghiệm cảnh đàn áp và khát mong cuộc giải thoát. Nhưng nhất là cuộc đời Đức Giêsu mới là trọng tâm của việc suy tư, như là tột đỉnh của hành động giải phóng của Thiên Chúa. Các thánh sử trình bày khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu mỗi người một cách, nhưng tất cả đều nêu bật chức năng giải phóng trong các hoạt động của Người. Cách riêng Luca đặt khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu tai hội đường Nazareth, qua việc đọc bản văn được đặt tên là “nỗi hân hoan của Isaia” (61,1-2): “Thần khí Chúa ở trên tôi; vì thế Người đã xức dầu thánh hiến tôi, và sai tôi đi loan báo một tin vui, để công bố sự giải phóng cho những người bị giam cầm và sự sáng mắt cho những người mù, để phóng thích những người bị áp bức và rao giảng một năm hồng ân của Chúa. Người đã sai đến công bố … năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18t.). Tân Ước diễn tả hành động cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Kitô qua những thuật ngữ như giải phóng, cứu chuộc. Đức Giêsu sử dụng thuật ngữ này khi chữa bệnh: “Này bà, bà được giải thoát khỏi bệnh tật” (Lc 13,12), hoặc khi tiên báo sự tàn phá Giêrusalem: “Chừng nào các điều này bắt đầu xảy ra, các ngươi hãy đứng lên và ngẩng đầu, bởi vì cuộc giải phóng của các ngươi đã gần kề” (Lc 21,28). Hai người môn đệ Emmaus dùng từ ngữ này để ám chỉ niềm hy vọng của họ vào Đức Giêsu: “Chúng tôi đã tin rằng ông ấy sẽ đến giải phóng Israel”. Thật vậy, theo như ông Dacaria thốt lên, toàn dân “đang mong đợi sự cứu chuộc của Israel” (Lc 2,38).

Đặc biệt thánh Phaolo gọi công trình của Đức Kitô là “cứu chuộc” (Rm 3,24) và chính Đức Kitô là “sự cứu chuộc của chúng ta”. Thực vậy. Thiên Chúa đã “giải phóng chúng ta khỏi quyền lực của tối tăm và dẫn đưa chúng ta vào vương quốc của Thánh tử chí ái, nhờ Người mà chúng ta đã nhận được sự cứu chuộc, sự tha thứ mọi tội lỗi” (Cl 1,13s). Công trình của Đức Kitô được giới thiệu như là việc giải phóng khỏi cảnh nô lệ của lề luật (Gl 3,22-23), khỏi các quyền lực của sự dữ (Cl 2,13-23), khỏi xác thịt, khỏi cái chết (Rm 5,12-21; 1Cr 15,20-26). Theo hướng này, chính cái chết của Đức Kitô được coi như cái giá của cuộc giải thoát khỏi cảnh nô lệ tội lỗi (1Tm 2,6; xc 1Cr 6,20; 7,23; Tt 2,14).

Từ ngữ “giải phóng” cũng ám chỉ mục tiêu của Thiên Chúa hành động trong lịch sử, chẳng hạn như khi thánh Phaolo viết như sau khi nói đến những gian truân ở Á châu: “Chúng tôi đã mang án tử hình nơi chính bản thân rồi, để chúng tôi không đặt tin tưởng vào chính mình, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng đã làm cho kẻ chết chỗi dậy. Chính Ngài đã giải phóng và sẽ còn giải phóng chúng tôi khỏi một cái chết như thế do niềm hy vọng mà chúng tôi đặt nơi Ngài, là Đấng sẽ còn giải phóng chúng tôi nữa” (2Cr 1, 9-10).

Sau cùng, các hạn từ cứu chuộc / giải phóng cũng ám chỉ hành vi cuối cùng của ơn cứu độ khi Đức Kitô trở lại vinh quang; lúc ấy sẽ là “ngày cứu chuộc” (Ep 4,30; Rm 8,23) khi mà vạn vật sẽ được “giái phóng khỏi cảnh nô lệ của cảnh hư nát, để đi vào sự tự do vinh quang của các con cái Thiên Chúa (Rm 8,21).

Xét vì ơn cứu độ Đức Kitô mang lại chỉ có thể được hiểu biết và mô tả theo nhiều khuôn mẫu khác nhau và, bởi vì, như công đồng Vaticanô II đã mong ước, “cần phải thúc đẩy cuộc nghiên cứu thần học trong các khu vực văn hóa xã hội khác nhau” (Ad gentes 2), cho nên theo dòng lịch sử chúng ta đã gặp thấy nhiều thứ thần học cứu độ hoặc những cách thức khác nhau để trình bày công trình cứu độ của Đức Kitô và sự phát triển qua hoạt động của Giáo hội. THGP là một trong những nỗ lực ấy. Cũng vì lý do ấy mà đã nảy sinh nhiều thứ THGP khác nhau, tuy cùng múc từ một nguồn Kinh Thánh, nhằm đáp ứng những đòi hỏi khác nhau của những khung cảnh văn hóa và xã hội khác nhau.

IV. Phương pháp THGP


Ngay từ khi mới ra đời, “THGP được giới thiệu như là “một cách thức mới” để làm thần học … như là suy tư phê bình của thực hành lịch sử … Một thứ thần học không giới hạn vào việc suy nghĩ về thế giới, mà còn tìm cách trở nên một thời điểm của tiến trình nhờ đó thế giới được thay đổi”[37]. Các THGP được cấu trúc như là việc suy tư phê bình và có hệ thống về kinh nghiệm hoặc thực hành đức tin của các cộng đồng Kitô hữu trong lịch sử[38]. Phương pháp ấy đang được thành hình trong nội bộ Giáo hội Công giáo, bởi vì phương pháp tân-kinh-viện còn nhiều thiếu sót[39]. Nó cũng được đặt tên là phương pháp của hành động (teologia della prassi)[40], hệ tại việc suy tư về kinh nghiệm đức tin mà một cộng đoàn thực hành trong một bối cảnh xã hội nhất định. Hiểu như vậy, thần học hệ tại đối chiếu liên lỉ giữa diễn từ đức tin và diễn từ thế giới”[41]. Phương pháp hành động giả thiết rằng sự suy tư chỉ có thể phát triển trong khung cảnh của một hành động được thực hiện bởi người tín hữu trong thế giới, phù hợp với đức tin[42]. Nó hệ tại việc suy tư về kinh nghiệm cứu độ của cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu Nazaret, để nắm bắt các yếu tố của nó, nêu bật những ý nghĩa mang tính phổ quát và thúc đẩy những sự thay đổi cần thiết để cho vương quốc Thiên Chúa đến, mang lại ơn cứu độ cho con người. Bởi thế, nó gợi lên một thứ hành động biến đổi, để tạo ra một khung cảnh đón tiếp ơn hòa giải mà Thiên Chúa cống hiến cho con người trong Đức Kitô. Như thế, thần học có hai chức năng: lắng nghe Lời trong những biến cố đang diễn ra và tạo điều kiện để cho nó vang lên cách trong sáng. Lý do của hai chức năng này nằm trong hành động của Thiên Chúa. Vì thế THGP được coi như sự suy tư hệ thống về kinh nghiệm đức tin của một cộng đồng Kitô hữu được thực hiện trong một khung cảnh lịch sử nhất định, để nắm bắt những tiếng vang của Lời tạo dựng mà nơi Đức Giêsu nó đã mặc lấy hình thức cứu độ con người, và gợi lên hành động giúp cho lời tạo dựng của Thiên Chúa có thể phát biểu trọn vẹn trong lịch sử nhân loại, cho đến khi nào được hoàn tất trong ngày Quang lâm. Khởi điểm là kinh nghiệm đức tin, được thực hiện bởi một cộng đồng giữa lòng lịch sử.

THGP nhấn mạnh đến kinh nghiệm như là khởi điểm của cuộc suy tư, khác với thần học tân-kinh-viện quy chiếu về các bản văn của Kinh Thánh và huấn quyền[43]. Kinh nghiệm đức tin được quan niệm như là nơi mà hành động của Thiên Chúa có thể được nhận thấy và Lời của Ngài có thể được lắng nghe. Việc lắng nghe này diễn ra trong một cộng đoàn đức tin sống trong một khung cảnh nhất định. Khi nào hoàn cảnh đi tới chỗ làm ngăn cản tiếng vang của Lời cứu độ bởi vì không đáp ứng với những đòi hỏi của sự thăng tiến con người, thì lúc ấy kinh nghiệm đức tin dẫn tới hành động biến đổi, trở nên hành động cộng đồng làm sao để cho Lời sáng tạo có cơ hội vang lên trong tiến trình lịch sử.

Tuy nhiên, các nhà thần học châu Mỹ Latinh nhấn mạnh rằng khởi đi từ chỗ hành động hàm ngụ không chỉ một sự suy tư về điều đang diễn ra mà còn một sự dấn thân để làm xảy ra điều mà lịch sử đòi hỏi. Theo nghĩa này, J. L. Segundo nhận xét rằng “thần học cấp tiến ở châu Mỹ Latinh quan tâm đến thực hiện sự giải phóng hơn là bàn về giải phóng”[44]. Và Pablo Richard thêm: “THGP, xét như là suy tư phê bình về hành động, được định nghĩa là thành phần cấu trúc của một hành động giải phóng… Lý lẽ của công tác thần học trùng với lý lẽ hành động làm thay đổi và giải phóng”[45]. “Đây là một thần học khởi đi từ vùng ngoại biên, thu thập những vấn đề ở đấy, tượng trưng cho một thách đố to lớn cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của các giáo hội”[46]. Trong viễn tượng này, thần học trở thành một thứ thông diễn những sự kiện cứu độ, tập trung vào cuộc đời Đức Giêsu, mà ý nghĩa được khám phá trong lòng một kinh nghiệm cộng đồng của đức tin, đặt trong bối cảnh của sự bần cùng bất công.

V. Quy chiếu về người nghèo : mầu nhiệm Đức Kitô và Giáo hội


Ngay từ đầu, việc quy chiếu về Tin Mừng sống trong điều kiện nghèo khó bất công là một đặc trưng của THGP. Nó cũng định hướng cho cách thức giải thích sứ mạng của Đức Kitô và quan niệm về cơ cấu Giáo hội là sự tiếp tục sứ mạng ấy trải qua thời gian.

Không gian tự nhiên của thần học là đời sống cộng đoàn giáo hội đồng hóa với những người nghèo. Điều này giải thích nhiều đặc điểm của thần học: đây là một thứ thần học được gợi lên từ thực tại; một thần học không tách rời khỏi cuộc sống; một thần học tạo ra những liên hệ giữa nhà thần học và nhân dân. Không phải là ngẫu nhiên mà thần học mang khuôn mặt mục vụ và bớt tính cách hàn lâm, phối kết với các phong trào bình dân, mở ra với các thách đố đặt ra cho mục vụ [47].

Việc quy chiếu về cảnh túng nghèo phi nhân bởi vì là hậu quả của bất công hoặc bạo lực gợi lên đòi hỏi tự do, và mang lại cho suy tư thần học một hệ luận chính trị, gây ra nhiều ủng hộ cũng như nhiều chống đối. Khi viết lời tựa cho ấn bản lần thứ mười của bản dịch tác phẩm Gustavo Guiterrez sang tiếng Đức, nhà thần học J. B. Metz viết rằng: “THGP đã nảy sinh từ nỗi bức xúc khi những diễn từ về Thiên Chúa không đả động gì đến lịch sử của những nỗi khổ cực của con người kêu thấu trời”[48]. Thực vậy, phàm ai thốt lên tiếng “Thiên Chúa” thì cũng phải chấp nhận để cho sự an toàn của mình bị chất vấn bởi những người khác[49]. Điều này hàm ngụ rằng cộng đồng Giáo hội phải biết gánh vác tất cả những gì tiêu cực của lịch sử để trở nên cảnh vực nơi mà Sự Sống (danh xưng phổ quát của Thiên Chúa) có thể tạo ra những biểu tượng mới. Nhà thần học cần phải giúp cho Giáo hội chu toàn bổn phận của mình qua việc vạch ra những lý do và những động lực. Đó cũng là lý do khiến cho “thần học chính trị” nảy sinh ở châu Âu.

Vì lý do ấy, những suy tư đầu tiên của THGP đều bao hàm mầu nhiệm Đức Kitô cứu thế và Giáo hội tiếp tục sứ mang ấy trong lịch sử, khi suy tư về điều kiện bần cùng bất công mà hàng triệu người phải chịu[50]. Bởi vậy THGP đã khởi sự bằng cách suy tư về mầu nhiệm Đức Kitô như là nguồn mạch và khuôn mẫu của tự do con người. Nhất là Leonaro Boff[51] (người Brasil) và Jon Sobrino[52] (linh mục dòng Tên người Tây Ban Nha nhưng làm việc ở San Salvador) đã trình bày một suy tư hệ thống về chủ đề này. Kitô luận của họ có bối cảnh là kinh nghiệm của các cộng đồng cơ bản ủng hộ những người nghèo và bị áp bức. Trong viễn tượng này, khuôn mặt của Đức Giêsu là một nhà giải phóng. Đức tin vào Người được diễn tả qua việc mong chờ triều đại Thiên Chúa, khi đi vào lịch sử đã làm thay đổi ngay từ bây giờ điều kiện của những người nghèo, và qua những cử chỉ giải phóng về phía các Kitô hữu.

Bên cạnh Kitô luận, việc suy tư về Giáo hội cũng là một đặc điểm của THGP ngay từ buổi đầu. THGP đã khai triển hình ảnh Giáo hội của những người nghèo, Giáo hội được xây dựng từ những đòi hỏi của những người đứng hàng chót[53]. Chân lý này cũng được diễn tả qua công thức Giáo hội nhân dân, được phát sinh do tác động của Thánh Linh giữa những người đứng hàng chót để tạo nên dân Thiên Chúa[54]. Ngay từ năm 1977, Gustavo Gutierrez đã viết: “Trong những năm gần đây, nhiều người Kitô hữu càng lúc càng nhận thấy rõ là nếu Giáo hội muốn trung thành với Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, thì cần phải ý thức về chính mình, khởi đi từ dưới lên, từ những người nghèo của thế giới, từ những giai cấp bị bóc lột, từ những chủng tộc bị khinh rẻ, từ những văn hóa bị gạt ra bên lề … Những con đường mới mẻ được mở ra theo nhãn giới ấy, từ chỗ mà chúng tôi gọi là sự lật nhào lịch sử” [55].

VI. Chứng tá của các vị tử đạo


Các nhà thần học giải phóng đã sớm nhận ra rằng hoạt động của họ sẽ phải đối diện với việc tử đạo. Thực vậy, nếu thần học là suy tư về chứng tá về Lời cứu độ cho thế giới, thì nó không thể nào né tránh lòng trung thành cao cả mà việc chọn lựa người nghèo và người bị gạt bỏ đòi hỏi, khi mà tiếng kêu của những người gây ra bực dọc cho những người quyền thế và đưa đến cuộc đàn áp. Chứng tá của các vị tử đạo trở thành sự xác minh cho hiệu lực của THGP và ý nghĩa của nó đối với Giáo hội. Hành động giải phóng càng bành trướng nhờ hoạt động của các cộng đoàn cơ bản hoặc tổ chức phục vụ những kẻ bị áp bức, thì sự đàn áp cũng gia tăng dữ dội. Những hình thức đàn áp thay đổi tùy theo quốc gia ở châu Mỹ Latinh, nhưng tại một vài nơi, nó trở thành một cuộc bách hại tôn giáo. Cuộc thảm sát ở San Salvador gây nhiều tiếng vang quốc tế, mở đầu cho một chuỗi những người bị giết vì theo lý tưởng THGP. Trong số này, ta có thể nhắc đến linh mục Rutilio Grande dòng Tên, Gabriella Garcìa một nhà xã-hội-học, đức tổng giám mục Oscar Romero, bị ám sát ngày 24/3/1980 đang khi cử hành Thánh lễ, sáu linh mục dòng Tên trong đó có cha viện trưởng Ignacio Ellacurìa và hai nhân viên đại học (16/11/1989), và rất nhiều Kitô hữu bị giết vì hoạt động nhằm bảo vệ những người nghèo, khi họ tố giác những bất công và bóc lột của cường quyền.

Trong bài giới thiệu bản dịch quyển sách của cha Gustavo Gutierrez ra tiếng Đức, J. B. Metz đã nhận xét như sau: “Hẳn nhiên điều mà Kitô giáo hiểu về sự giải phóng bao gồm cả quan niệm về sự tự do có khả năng phạm tội và cần phải hoán cải. Điều này không chỉ là một khái niệm lãng mạn, chẳng liên quan chi đến chính trị; nó chỉ rút lui khỏi thứ chính trị của hận thù và vũ lực. Nếu được hiểu một cách ‘nghiêm túc’, sự giải phóng thực sự là một cuộc thách đố cho thần học và cho giáo hội”[56]. Như thế, nó trở thành một sự thách đố cho bất cứ xã hội nào được xây dựng trên sự bất công, đàn áp, và tất nhiên mang theo việc làm chứng tá Tin Mừng cho đến chỗ tử đạo.

VII. Sự mở rộng THGP sang các lãnh vực và đại lục khác


Từ châu Mỹ Latinh, THGP được lan rộng sang các đại lục khác, và được liên kết với nhiều phong trào giải phóng ra đời vào những năm ấy. Chẳng hạn như chúng ta không thể bỏ qua Black Theology (thần học da đen) được phát triển bên Hoa kỳ[57], theo đó việc giải phóng những người da đen bị áp bức và kỳ thị “là sứ điệp căn bản của Đức Kitô cho châu Mỹ ở thế kỷ XX”[58]. Đồng thời cũng phát triển thần học nữ quyền như là suy tư đức tin về kinh nghiệm của những nhóm hoạt động cho cuộc giải phóng phụ nữ.

Trong các cộng đồng bên châu Phi và châu Á, ngoài sự thúc đẩy giải phóng xã hội và chính trị, người ta còn cảm thấy sự khẩn trương của việc hội nhập văn hóa, nghĩa là cần phải giải phóng các công thức đức tin khỏi những khuôn đúc văn hóa Tây phương mà chế độ thực dân đã để lại. Trong lãnh vực này, THGP cảm thấy sự cần thiết phải diễn tả Tin Mừng bằng những biểu tượng văn hóa của những vùng khác nhau, và do đó sự cần thiết phải đối thoại với các tôn giáo khác.

Vào đầu thập niên 70, người ta thấy một sự mở rộng THGP châu Mỹ Latinh sang nhiều lãnh vực khác. Châu Phi và châu Á đã phát triển một thứ thần học riêng với nhiều nét tương tự như châu Mỹ Latinh, và rồi đến lượt họ cũng gây ảnh hưởng tới sự phát triển của THGP.

Năm 1975, tại Detroit có hội nghị “Theology in the Americas” trong đó THGP có dịp đối thoại với thần học da đen và thần học nữ quyền, cũng tự coi là dấn thân vào tiến trình giải phóng các phụ nữ và người da đen ở Hoa kỳ[59].

Năm 1976 đánh dấu sự khai sinh của “Hiệp hội đại kết các nhà thần học thuộc thế giới thứ ba” (ASETT/EATWOT), họp đại hội lần thứ nhất tại Dar-Es-Salaam (Tanzania 5-12 tháng 8)[60]. Trong những năm kế tiếp, có những đại hội theo mỗi đại lục: châu Phi (Accra bên Ghana, ngày 17-23/12/1977); châu Á (Wennapuwa ở Sri Lanka, ngày 7-20/1/1979); châu Mỹ Latinh (San Paolo ở Brasil ngày 20/2 – 2/3/1980). Một hội nghị được tổ chức ở New Delhi, Ấn độ (ngày 17-29/8/1981) để lượng giá những công tác đã thực hiện[61].

Những cuộc tiếp xúc này đã mang lại cho THGP một tầm nhìn toàn cầu, không chỉ nghiên cứu sự lệ thuộc kinh tế như hồi ban đầu, mà còn sự lệ thuộc văn hóa và nhân bản, như các nhà thần học châu Phi đã gợi ý[62], và được ủng hộ bởi các nhà thần học da đen ở Hoa Kỳ và thần học nữ quyền ở tất các các đại lục. Sự phát triển của thần học da đen ở Bắc Mỹ[63] đã thúc giục THGP hãy đón nhận “tiếng than của người da đen, nghèo nàn và bị khinh miệt, đã bị cướp bóc khỏi vùng đất châu Phi cách đây 500 năm và hiện đang có mặt tại những cộng đồng Mỹ-Phi của châu Mỹ Latinh và quần đảo Caraibi. Các nhà thần học giải phóng coi sự kỳ thị chủng tộc là một tội … một ý thức hệ phát sinh sự nô lệ thuộc địa: dù là thổ dân da đỏ trở thành nô lệ hoặc người da đen được mang từ châu Phi đến”[64]. Kỷ niệm 500 năm người châu Âu khám phá châu Mỹ (1492) đã trở thành cơ hội suy nghĩ về chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc và chủ nghĩa thực dân hiện nay vẫn còn ảnh hưởng, và đòi hỏi những phong trào giải phóng rộng rãi[65]. Các nhóm thiểu số, những nhóm bị gạt ra bên lề, các dân tộc bản địa chịu áp bức đã nghĩ ra những thần học để cổ vũ các tiến trình giải phóng và hòa giải[66].

Phụ thêm (của dịch giả): Đức thánh cha Phanxicô với THGP


Bài này được soạn cho cuộc thuyết trình tại Fano ngày 6 tháng 6 năm 2014. Từ đó đến nay, phản ứng của Giáo hội đối với THGP đã thay đổi rất nhiều, đặc biệt là kể từ khi ĐTC Phanxicô đắc cử Giáo hoàng. Tác giả đã cung cấp thêm một vài thông tin liên quan đến lập trường của ngài khi còn làm tổng giám mục ở Argentina và khi lên làm giám mục Roma[67].

1/ Khi còn làm giám mục ở Argentina, đức cha Bergoglio có phò THGP không? Cần phải phân biệt các khuynh hướng khác nhau của THGP. Theo cha Juan Carlos Scannone S.J., có ít là ba khuynh hướng khác nhau của THGP: a) khuynh hướng thiên về chủ nghĩa mác-xit; b) khuynh hướng lịch sử cứu độ; c) khuynh hướng thần học nhân dân[68]. Giữa ba khuynh hướng ấy có sự khác biệt không nhỏ. Khuynh hướng thứ ba là một đặc điểm của các nhà thần học Argentina.

“Thần học nhân dân” (Teologia popolare, hay Teologia del popolo) nhấn mạnh đến việc loan báo Tin Mừng cho nhân dân, nghĩa cho văn hóa dân gian, nhấn mạnh đến sự cần thiết hội nhập đức tin vào các nền văn hóa, lòng đạo đức bình dân. “Nhân dân” (Il popolo) được hiểu như là một dân tộc được liên kết với nhau thành một văn hóa, một lịch sử, một chủ thể cần giải phóng khỏi cảnh bất công và áp bức. Đối với THGP ở Argentina, việc chọn lựa người nghèo được nối kết với việc loan báo Tin Mừng cho văn hóa, trong đó bao gồm các cơ cấu xã hội cũng như tâm tình đạo đức bình dân. Những nhà “lý thuyết” của khuynh hướng này là Lucio Gera và Juan Carlos Scannonne; họ nhận được hậu thuẫn của các giám mục Argentina (Pironio, Quarracino, Bergoglio). Hồng y Jorge Bergoglio chia sẻ lý tưởng của THGP theo nghĩa là «một Giáo hội nghèo và phục vụ người nghèo, và tố giác não trạng của những người hoảng hốt vì thị trường chứng khoáng sụt giá, nhưng lại hờ hững với hàng ngàn người không có miếng ăn”[69].

2/ Điều này càng rõ hơn nữa khi chúng ta đọc các văn kiện của ĐTC Phanxicô, bắt đầu với tông huấn “Niềm vui của Tin Mừng” (Evangelii gaudium), ngày 24/11/2013. Văn kiện này áp dụng phương pháp Xem-Xét-Làm, khởi đi từ những dấu chỉ thời đại (số 50-51), trong đó lưu ý đến nền kinh tế loại trừ những người nghèo (số 53-55). Đặc biệt là tông huấn đã dành chương bốn bàn đến việc loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay với việc thăng tiến con người (số 176-253): hai khái niệm ấy gắn liền với nhau. Trong chương này, mối quan tâm đến người nghèo (số 185-216) được đặt trước đối thoại văn hóa. Văn kiện ước mong “một Giáo hội nghèo cho người nghèo” (số 198), điều này có nghĩa là cần biết nhận ra Đức Kitô nơi người nghèo, lên tiếng thay cho người nghèo để bảo vệ họ, cũng như gần gũi và lắng nghe người nghèo, khám phá sự khôn ngoan huyền nhiệm và Thiên Chúa muốn nói với chúng ta qua họ.

Như vậy tông huấn “Niềm vui của Tin Mừng” đã lấy lại đề tài “dành mối chọn lựa ưu tiên cho người nghèo” của THGP cũng như của CELAM. Điều này còn được ĐTC Phanxicô lặp lại ở nhiều cơ hội khác. Chỉ cần trưng dẫn một thí dụ: thông điệp Laudato si (24/5/2015) bàn về vấn đề môi sinh, ngay từ đầu đã gắn liền “mối tương quan chặt chẽ giữa người nghèo và ngôi nhà chung”, “chính trái đất bị dẫm đạp phá hoại này hiện thân nơi những người nghèo, họ là thành phần dễ bị bỏ rơi và bị đối xử tàn tệ nhất” (số 2). Trong thông điệp nói về ảnh hưởng của việc biến đổi khí hậu, từ “khí hậu” được nhắc tới 14 lần, còn người nghèo được nhắc đến 59 lần.

3/ Ngoài những bản văn, thiết tưởng các sự kiện cũng không kém quan trọng.

Chỉ 6 tháng sau khi được bầu làm Giáo hoàng, vào ngày 12/9/2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp cha Gustavo Gutierrez tại Vatican. Các cơ quan truyền thông coi đây như một cử chỉ phục hồi giá trị cho THGP.

Ngoài ra, nếu trước đây, Bộ Giáo lý Đức tin đã xuất bản hai huấn thị trình bày những dè dặt đối với THGP, thì nay hồng y Gerard Muller, Tổng trưởng bộ giáo lý đức tin, đã viết chung với Gustavo Gutierrez một cuốn sách tựa đề “Nghèo cho người nghèo, Sứ mạng của Giáo hội”, do chính ĐTC đề tựa[70], và được giới thiệu cho báo chí ngày 24/2/2014[71].

Trong chuyến tông du tại Peru, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến cha Gustavo Gutierrez tại tòa Sứ thần Tòa thánh tại Lima ngày 21/1/2018. Ngày 29/5 cùng năm ấy, ĐTC đã viết thư chúc mừng cha nhân dịp thượng thọ 90 tuổi, và cám ơn cha vì đã đóng góp cho Giáo hội và cho nhân loại bằng công tác thần học và lòng yêu mến những người nghèo và bị gạt bỏ, và cầu chúc cho cha luôn vui tươi tiếp tục nỗ lực đánh thức lương tâm mọi người đừng thờ ơ với người nghèo[72].

Dĩ nhiên cha Gutierrez không phải là hiện thân của THGP, bởi vì còn nhiều tác giả và khuynh hướng khác. Nhưng ít nhất, hướng đi của cha không trái ngược với Giáo hội mà còn giúp cho Giáo hội trung thành với sứ mạng của mình là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.

[1] E. Dussel, Transformaciones de los supuestos epistemológicos de la “Teologìa de la liberación”, in AA. VV., Resistencia y solidaridad. Globalizaciòn capitalista y Liberaciòn, (ed. Raul Fernet-Betancourt), Trotta, Madrid 2003 p. 291 (291-299). Tác giả phân biệt giữa thần học giải phóng nguyên thủy (THGP 1) và thần học giải phóng hiện nay (THGP 2).
[2] J. J. Tamayo, Presente y futuro de la teologìa de la liberaciòn, San Pablo, Madrid 1994, khẳng định rằng THGP là một trong những phong trào thần học có ý nghĩa nhất trong lịch sử Kitô giáo.
[3] G. Gutierrez, Situazione e compiti della teologia della liberazione, in AA. VV. (R. Gibellini, a cura) Prospettive teologiche per il XXI secolo, Queriniana, Brescia 2003, p. 93 n.1.
[4] E. Càrdena, America Latina, in AA. VV., Storia della Chiesa. La chiesa del Vaticano II (1958-1978), S. Paolo, Cinisello Balsamo 1994 p. 513: “Một vài giáo dân, nhất là một vài tu sĩ Dòng Tên, nhạy cảm đối với vấn đề xã hội và trung thành với giáo huấn của Đức thánh cha, là những người tiên phong của thái độ mới của Giáo hội”. Năm 1952, tập san Latinoamérica đã viết: “Không thể nào làm thinh trước vấn đề sâu xa nhất. Cần phải đi tận cội rễ của sự rối loạn xã hội. Một lần nữa trong lịch sử, Giáo hội có sứ mạng bảo vệ những người bị áp bức. Nếu mà những người Pharisêu đến trước, thì chũng ta sẽ thua trận chiến của thế kỷ này rồi”.
[5] “Cuộc cám dỗ làm cách mạng, theo nghĩa là cắt đứt với quá khứ, đã thu hút một số người có ý thức thuộc tầng lớp trí thức cũng như giới nông dân. Năm 1965 là năm nổi bật nhất của các phong trào du kích, với hai khuôn mặt của Camillo Torres (bị giết ngày 15/2/1966) và Ernesto Che Guevara (bị giết ngày 8/10/1967) đã gây ra nhiều ấn tượng trong toàn đại lục này. Và người ta không ngại thách thức bộ máy chính quyền. B. Chenu, Teologie cristiane dei terzi mondi, (GdT 181), Queriniana, Brescia 1988, p. 26.
[6] “Ngay trong thời gian họp Công đồng, các nhà thần học muốn đi tìm một cái gì khác, một thần học “lịch sử” mới. Một cuộc họp của các nhà thần học tại Petrópolis (Brasil) vào tháng 3 năm 1964, dưới sự hướng dẫn của Lucio Gera, nghiên cứu ý nghĩa của ơn cứu độ trong bối cảnh của bất công và đàn áp như thực trạng của đa số nhân dân tại châu Mỹ Latinh. Tiếp theo là những cuộc gặp gỡ ở Bogotá và Cuernavaca vào tháng 6-7 năm 1965. Người ta tìm một mẫu mới cho cuộc loan báo Tin Mừng. Càng lúc càng xuất hiện những thuật ngữ diễn tả sự đấu tranh giai cấp, và đối chọi giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Một số người chủ trương Giáo hội Nam Mỹ cần tỏ thái độ chống đối nhóm thống trị và hướng về các người nghèo ở ngoại biên thành phố”. Br. Chenu, Teologie cristiane dei terzi mondi, o.c., p. 31.
[7] Hội nghị các sinh viên vào tháng 7 năm 1968 mang tựa đề: Hướng đến một thần học giải phóng. Nó đánh dấu sự rời bỏ thần học phát triển vốn được theo đuổi trước đó. Bruno Chenu tóm lược thành quả của hội nghị như sau: “Cảnh bần cùng và thất nghiệp lan tràn, các khu ổ chuột bidonvilles tăng thêm. Hệ thống tương quan kinh tế giữa các bên chênh lệch đòi hỏi một cuộc thay đổi. Ý thức hệ dựa trên sự phát triển đã thất bại”. Teologie cristiane dei terzi mondi, (GdT 181), Queriniana, Brescia 1988 p. 26. Vào thời gian này, tôi muốn nhắc đến một quyển sách được viết bên châu Mỹ Latinh của Fr. Arturo Paoli Dialogo della liberazione, Morcelliana Brescia 1969 (Aragno 20082).
[8] CELAM (Consiglio Episcopale dell'America Latina) là tổ chức đầu tiên của các giám mục cấp đại lục trong Giáo hội Công giáo. Nó bắt nguồn từ Đại hội hàng giám mục châu Mỹ Latinh họp lần đầu tiên vào năm 1955 (25/7 đến 4/8) tại Rio De Janeiro (Brasil). Vào lúc bế mạc các giám mục ước mong thành lập một cơ quan thường trực; điều này được ĐTC Piô XII phê duyệt vào tháng 9, trụ sở đặt tại Bogotá (Colombia). Kể từ đó CELAM đã tổ các Đại hội khác: lần thứ hai năm 1968 tại Medellin, lần thứ ba năm 1979 tại Puebla (Mexico); lần thứ tư tại Santo Domingo năm 1992, và lần thứ năm tại Apareida (Brasile) năm 2007.
[9] CEIAL (a cura) Medellìn. Documenti della seconda Conferenza dell’episcopato latino-americano, EMI, Bologna 1977.3
[10] Nếu đọc các văn kiện chuẩn bị và tuyên ngôn bế mạc của Đại Hội Medellin, ta thấy rằng các tiến trình của Giáo hội được sống ở Mỹ châu Latinh và được diễn tả qua THGP đã xuất hiện trong các suy tư của các nhà thần học tại đại lục này. Điều này được thấy rõ trong phương pháp lý luận cũng như trong những chủ đề chính.. C. Palacio, Spostamenti della teologia, mutamenti socioecclesiali. Percorsi recenti della teologia in Brasile, in Concilium, 3/2002 p. 98[448] có viết: giai đoạn và bối cảnh ra đời của THGP “là thời kỳ liền sau Công đồng, một mùa xuân của Giáo hội, được kéo dài nơi Đại hội giám mục Medellin”.
[11] S. Galilea, La teologia della liberazione dopo Puebla, Queriniana, Brescia 1979, p. 22. Vào dịp Thượng hội đồng giám mục khóa đặc biệt năm 1985, khi đề cập đến Đại hội Medellin, Đức Cha Ivo Lorscheider khẳng định rằng: “Tại Đại hội này THGP đã nhận được quốc tịch trong Giáo hội, được xác nhận sau đó bởi ĐTC Phaolô VI trong tông huấn Evangeli nuntiandi, bởi các thượng hội đồng giám mục năm 1971 và 1974 và bởi ĐTC Gioan Phaolo II trong nhiều diễn từ”, tr. it Teologia della liberazione, il Regno Documenti 1986/3 p. 95. Medellin là một cách thức đọc Vaticanô II từ phía châu Mỹ Latinh”, và nó giữ vai trò đối với châu Mỹ Latinh giống như Vaticanô II đối với Tây phương” Br. Chenu, Teologie cristiane dei terzi mondi, (GdT 181), Queriniana, Brescia 1988 p. 31: “Medellìn là cái nôi của THGP”.
[12] G. Gutierrez, Teologia de la liberación. Perspectivas, Lima 1971. Trong số những tác phẩm đầu tiên ra đời vào giai đoạn này, có thể kể: Hugo Assmann (Opresión-Liberación, 1971), Leonardo Boff (Gesù Cristo liberatore, 1971 tr. it. Cittadella, Assisi 1976), Juan Luis Segundo, Enrique Dussel, Segundo Galilea, José Miguez-Bonino, Ruben Alves (hai tác giả này thuộc Tin Lành), Gonzalo Arroyo, v.v..
[13] Br. Chenu, Teologie cristiane, o.c., pp. 33-34.
[14] Thành quả của hội nghi được xuất bản trong AA. VV., Fede e cambiamento sociale in America Latina, Cittadella Assisi 1975, với thư mục về học thuyết lệ thuộc dưới khía cạnh kinh tế xã hội ở trang 295-298.
[15] “Tân tổng thư ký là đức cha Alfonso López Trujillo, chủ tịch ủy ban hoạt động xã hội là đức cha Luciano Duarte, chủ tịch ủy ban giáo dân là đức cha Antonio Quarracino. Tất cả đều nổi tiếng là bảo thủ! Tân chủ tịch của CELAM là đức cha Eduardo Pironio. Hội nghị tại Sucre đã phê bình THGP và việc lựa chọn những người nghèo. Học viện mục vụ ở Quito, Học viện phụng vụ tại Medellìn, Học viện huấn giáo Manizales đều bị đóng cửa. Kể từ đó, Giáo hội không còn tiếng nói phê bình trên bình diện đại lục, và một đợt sóng đàn áp có thể ập xuông Giáo hội châu Mỹ Latinh”. Br. Chenu, Teologie cristiane, o.c., p. 35.
[16] “Năm 1973 xảy ra cuộc đảo chính tại Chile, và tướng Pinochet lên nắm quyền. Trước đó không lâu là ở Uruguay, rồi đến Peru (1975), Ecuador và Argentina (1976). Phần lớn các quốc gia châu Mỹ Latinh ở dưới quyền thống trị của giới quân nhân. Đây là thời kỳ của bạo lực, tra tấn, mất tích, ám sát.… Từ năm 1973 đến 1979, nghĩa là trong vòng 5 năm, Giáo hội tại châu Mỹ Latinh đã có con số tử đạo nhiều hơn là 5 thế kỷ đầu tiên của Giáo hội. Người ta làm tất cả để hạ giá những ai muốn dấn thân cho người nghèo”. Br. Chenu, Teologie cristiane, o.c., p. 37. Ở Brasil, quân đột đã thực hiện cuộc đảo chính ngay từ năm 1964. Năm 1976 (tháng 7), 17 giám mục Ecuador bị vào tù. Ngày nay, người ta đã biết được ảnh hưởng của Hoa kỳ trong các hoạt động này, với sự hỗ trợ của các đội cảm tử của CIA. Xc. Tác phẩm của P. Roy thuộc dòng Maryknoll.
[17] L. Boff, Teologia della cattività e della liberazione, Queriniana, Brescia 1977 (nguyên tác 1975), p. 9.
[18] R. Alves, Dal paradiso al deserto, in AA. VV. (a cura di R. Gibellini), La nuova frontiera della teologia in America Latina, Queriniana, Brescia 1975, p. 422.
[19] Comisión Teológica Internacional, (a cura di K. Lehmann) Teologìa de la liberación, BAC, Madrid 1978.
[20] K. Lehmann cho thấy rằng “hạt nhân của THGP là tiếng kêu ngôn sứ của Kitô giáo châu Mỹ Latinh đứng trước cảnh bần cùng và lầm than của khung cảnh xã hội ấy”, in: Teologìa de la liberación, o.c. p. 28. Hans Urs von Balthasar khẳng định rằng THGP “giữ một chỗ đứng đặc biệt trong thần học về vương quốc Thiên Chúa, và đòi hỏi Giáo hội phải đề ra một đường lối hành động để hướng dẫn thế giới hướng về Đức Kitô”, ib., p. 181.
[21] Các văn kiện chuẩn chuẩn bị và văn kiện kết thúc có thể tìm thấy trong: Puebla: comunione e partecipazione (a cura di P. Vanzan), Ave, Roma 1979.
[22] Puebla, Conclusioni n. 1134. Hạn từ “toàn diện” muốn nói rằng sự giải phóng không chỉ nhằm đến lãnh vực tinh thần hoặc tội lỗi, mà cả lãnh vực xã hội và lịch sử.
[23] J. Sobrino, Puebla, serena affirmación de Medellìn, in Christus (Mexico) n. 520-521 (1979), pp. 49-51.
[24] Vào tháng 3 năm 1979, đức cha Lopez Trujillo thay đức cha Pironio trong chức vụ chủ tịch. Đức cha Quarracino được bầu làm tổng thư ký. “Đối với THGP, đó là những năm giam cầm và lưu đày, đau đớn và nhẫn nhục. Thần học đi vào giai đoạn thập giá. Vài nhà thần học phải lưu vong, hoặc vì cưỡng bách hoặc vì thận trọng. Dussel phải rời Argentina, Assmann và Richard rời Chile, v.v.. Tuy nhiên, trong những năm khó khăn này, THGP đã có những bước tiến trong lãnh vực Kinh Thánh, mục vụ và tâm linh. Nó có dịp đào sâu hơn căn tính Kitô giáo và Giáo hội của mình”. Br. Chenu, Teologie cristiane, o.c., p. 40.
[25] Nhân cơ hội này Gustavo Gutierrez đã xác minh rằng các nhà thần học học giải phóng không chấp nhận ý thức hệ mác-xít vô thần, cũng không chấp nhận cái nhìn toàn chế của lịch sử, phủ nhận tự do của con người. Họ chỉ sử dụng những dụng cụ phân tích xã hội có giá trị thời ấy để phân tích các điều kiện lệ thuộc kinh tế của châu Mỹ Latinh. Dù sao các suy tư luôn tiến hành trong viễn tượng của đức tin Kitô giáo. Ngay cả sự phân tích các xung đột xã hội cũng được thực hiện trong niềm xác tín rằng việc thực hiện công bình là yếu tố cốt yếu của Vương quốc Thiên Chúa, điều kiện tuyệt đối cho hòa bình; và các mối tương quan xã hội cần được phát triển trong tình yêu ban không, nhắm đến việc biến đổi kẻ thù thành anh em. Teologia e scienze sociali in Il Regno, Documenti 1984/14, pp. 620-628.
[26] Congregazione per la dottrina della fede, Istruzione su alcuni aspetti della teologia della liberazione”, (6 agosto 1984) EV 9 (1987) nn. 866-987, pp. 866-927.
[27] “Những điểm phê bình cốt yếu nằm ở chỗ sử dụng những phạm trù mác-xít trong việc phân tích tình trạng (lý thuyết về sự lệ thuộc), việc thay thể thần học cứu chuộc bằng THGP, chủ trương muốn thực hiện vương quốc Thiên Chúa trên địa cầu bằng sự giải phóng hoàn vũ, việc lựa chọn vũ lực trong trường hợp bị đàn áp. Việc chỉ trích này bắt nguồn từ việc cố tình hiểu lầm, không nhận ra ngôn ngữ đặc biệt của ý tưởng giải phóng, lo sợ sự xâm nhập thuyết mác-xít vào Giáo hội, và xem ra chỉ thấy khuôn mặt méo mó của THGP”. H. Vorglimler, Teologia della liberazione, In Id. Nuovo dizionario teologico, Dehoniane, Bologna 2004, p. 733.
[28] Congregazione per la Dottrina della Fede, Libertà cristiana e liberazione (EV 10 (1989) nn. 199-344). Văn kiện xác minh về quan niệm “giải phóng” như sau: “Khái niệm ám chỉ toàn thể những tiến trình nhằm tạo ra và bảo đảm những điều kiện cần thiết để thi hành sự tự do chân chính của con người… Tự nó, sự giải phóng chưa mang lại tự do. Tâm thức chung của nhân loại, được đức tin Kitô giáo củng cố, cho biết rằng tự do cho dù bị chi phối nhưng không bị tiêu hủy. Kể cả những con người bị khống chế tàn bạo cũng có thể tìm cách biểu lộ tự do và tìm được con đường để tự giải phóng. Một tiến trình được giải phóng đạt tới tiêu điểm chỉ có thể tạo ra những điều kiện tốt hơn để thi hành tự do cách hữu hiệu. Vì thế, một sự giải phóng mà không để ý đến tự do của những người tranh đấu cho nó, thì chắc chắn là thất bại ngay từ đầu”. Số 31, EV 10 (1989) 233. Về huấn thị này, xc. R. Marlé, La théologie de la libération réhabilitée?, in Etudes 365 (1986) pp. 521-536 và R. Lafontaine, La liberté chrétienne et la libération. Réflexions sur l'Instruction romaine, in Nouv. Revue théologique, 110 (1988) 2, pp. 181-211.
[29] Lá thư đề này 9/4/1986, được trích trong R. Gibellini, Temi e problemi della TdL, in AA. VV., Teologie della liberazione, Ave, Roma 1991 p. 104 n. 75.
[30] Teologia e Libertação, ed. Cepes e Vozes, San Paolo, (một phần được dịch ra tiếng Ý: Teologia e Liberazione, Cittadella Editrice, Assisi). Nguyên tắc soạn thảo và những mục tiêu được giải thích trong AA. VV. (a cura di R. Gibellini) La nuova frontiera della teologia in America Latina, Queriniana, Brescia 19912.
[31] I. Ellacurìa-J. Sobrino (edd.), Mysterium liberationis. Conceptos fundamentales de la Teologìa de la liberaciòn, Trotta, Madrid 1990, 2. v.v.; (bản dịch tiếng Ý: Mysterium liberationis. I concetti fondamentali della teologia della liberazione, Borla, Roma, 1992 (Introduzione di Carlo Molari, pp. 5-31).
[32] Ngày 15/2/2004 tại Ciudad Mejico, đức hồng y Xavier Errázuriz, tổng giám mục Santiago del Cile và chủ tịch CELAM thông báo là đã xin Đức thánh cha triệu tập đại hội các giám mục châu Mỹ Latinh vào cuối năm 2005 hoặc đầu năm 2006. Do việc từ trần của ĐTC Gioan Phaolô II và bầu cử ĐTC Beneđictô XVI, cuộc họp phải dời lại cho đến năm 2007.
[33] La teologia della Liberazione, AA. VV. Problemi e prospettive di teologia dogmatica, Queriniana, Brescia 1983, pp. 406-415. Tác giả chia ra ba giai đoạn của thần học ở châu Mỹ Latinh: tiền công đồng bảo thủ, tiền công đồng cấp tiến, và hậu công đồng. Trong giai đoạn thứ ba, tác giả phân biệt ba trào lưu của THGP. Xem thêm R. O. Maqueo, Liberación y teologìa, Ed. Crt, México 1977 pp. 350-369. Ông đặt tên cho trào lưu cuối cùng của Scannono là “dân gian” (populista). Trong thời gian họp đại hội Puebla, Scannone và Lucio Gera đã trình bày một chương trình THGP dựa theo viễn ảnh của văn hóa dân gian, nhưng điều này không được đón nhận vào Văn kiện kết thúc. Đại hội lần V sẽ đánh giá cao trào lưu này của THGP nhờ sự can thiệp của hồng y G. Bergoglio, tổng giám mục Buenos Aires.
[34] E. Dussel kể ra 13 sự biến đổi văn hóa và tâm linh đã ảnh hưởng đến THGP và đã gây ra nhiều thay đổi sâu đậm: Transformaciones de los supuestos epistemológicos de la «Teologìa de la liberación», in AA.VV., Resistencia y solidaridad. Globalizaciòn capitalista y Liberaciòn, (ed. R. Fernet-Betancourt), Trotta, Madrid 2003 pp. 291-299: từ khuôn mẫu ý thức đến khuôn mẫu ngôn ngữ; từ bản-văn ánh-sáng đến bản-văn văn-bản; từ khuôn mẫu độc thoại đến chủ thể cộng đồng; từ tri thức lý thuyết đến đồng thuận trong một cộng đoàn; từ chỗ tự ý thức phê bình đến chỗ tôn trọng các tiến trình tự điều chỉnh; từ các khoa học xã hội đến luân lý; từ chính trị đến kinh tế; từ kinh tế đến cuộc sống trực tiếp; từ người nghèo đến nạn nhân; từ không-tưởng đến lý trí chiến lược dân chủ và từ cách mạng đến biến đổi; từ phê bình ý thức hệ đến phê bình bái vật giáo; từ thần học giải phóng đến siêu thần học của các thần học giải phóng khác nhau; từ đại kết trong nội bộ Kitô hữu đến đại kết giữa các tôn giáo toàn cầu.
[35] Về khía cạnh môi trường xc. L. Boff, Ecologia, mondialità, mistica. L’emergenza di un nuovo paradigma, Cittadella, Assisi 1993; Id., Nuova era: la civiltà planetaria. Sfide per la società e il cristianesimo, Cittadella, Assisi 1994; Id., Grido della terra, grido dei poveri. Per una ecologia cosmica, Cittadella, Assisi 1996; Id., Il creato in una carezza. Verso un’etica universale: prendersi cura della terra, Cittadella, Assisi, 2000; Id., La voce dell’arcobaleno. Per un’etica planetaria e una spiritualità ecologica, Cittadella, Assisi 2002. Việc đối thoại với các tôn giáo được các nhà thần học châu Á quan tâm đến, nhưng gần đây cũng được các nhà thần học châu Mỹ Latinh tìm hiểu. Một dấu hiệu có ý nghĩa là Hội nghị quốc tế THGP họp tại Porto Alegre vào tháng giêng năm 2005 mang chủ đề Le teologie della liberazione di fronte alle religioni (Các THGP đứng trước các tôn giáo).
[36] H. Vorglimler, Teologia della liberazione, In Id. Nuovo dizionario teologico, Dehoniane, Bologna 2004 p. 732.
[37] G. Gutierrez, Teologia della liberazione, o.c., p. 25.
[38] L. Boff định nghĩa thần học là “suy tư phê bình dưới ánh sáng của kinh nghiệm đức tin Kitô hữu về đường lối hành động của con người, cách riêng của các Kitô hữu, nhắm đến cuộc giải phóng toàn diện con người”, Teologia della cattività, o.c., p. 52.
[39] Trong thời kỳ sau Công đồng, vấn đề phương pháp xem ra là một câu chuyện gai góc nhất trong thần học Công giáo. Hội nghị của tập san Concilium tại Bruxelles năm 1970 là một trường hợp điển hình. Chặng thứ nhất được dành việc thảo luận về thần học và phương pháp thần học. Xc. AA. VV., Il libro del Congresso. L'avvenire della chiesa, Bruxelles 1970, Queriniana, Brescia 1970 pp. 61-98: Vai trò của thần học trong Giáo hội. E. Schillebeekx trình bày thần học như là “lý thuyết của hành động Giáo hội”, “tìm kiếm và suy tư nhằm phục vụ sự liên tục hiện tại của lịch sử thông diễn Kitô hữu như là nó đang được thể hiện trong ‘cộng đồng dân Chúa … Tiến trình thông diễn này không thể nào được thực hiện theo một cách thức thuần túy lý thuyết. Một ý định thực tiễn cần thúc đẩy thần học thông diễn”, E. Schillebeekx, Lo statuto critico della teologia, in AA. VV., Il libro del Congresso, o.c., pp. 92, 94. W. Kasper nói: “Cuộc gặp gỡ giữa đức tin và tư tưởng cận đại không thể nào diễn ra trong một hệ thống trừu tượng và đóng kín, nhưng chỉ có thể thực hiện trong một tư tưởng mở rộng ra lịch sử, dưới sự thúc đẩy của mối tương quan lý thuyết và hành động. Lý thuyết nảy ra từ hành động đang diễn ra trong Giáo hội; lý thuyết phê phán hành động dựa trên khả năng thông đạt sứ điệp giải phóng của Đức Giêsu Kitô cho con người thời này. Nhờ sự phê phán này, Giáo hội cũng như từng cá nhân Kitô hữu nhận ra một thứ hành động tốt hơn. Theo nghĩa này, thần học có thể được hiểu như là lý thuyết phê phán hành động của người Kitô hữu và của Giáo hội”. W. Kasper, La funzione della teologia nella chiesa, in AA. VV., Il libro del Congresso, o.c., pp. 71-72.
[40] Một thí dụ của việc áp dụng phương pháp thần học này là bộ sách AA. VV., Introduzione alla pratica della teologia, Queriniana, Brescia 1986-1987 (nguyên tác tiếng Pháp được xuất bản do Cerf, Paris 1982-1983).
[41] L. Boff L., Nuevas vìas para la transformaciòn de la manera de pensar de la teologìa, in AA. VV., Resistencia y solidaridad. Globalizaciòn capitalista y Liberaciòn, (ed. Raul Fernet-Betancourt), Trotta, Madris 2003, p. 269.
[42] H. Vorgrimler đã ghi nhận cách chí lý như sau: “Việc suy tư được chuẩn bị bằng cuộc dấn thân dứt khoát cho cuộc giải phóng. Những kinh nghiệm đức tin trong những hoàn cảnh như thế sẽ làm thay đổi cục diện thần học so với những viễn ảnh thần học bên châu Âu. Sự suy tư thần học mang những đặc điểm sau: a) phân tích tình hình, bằng cách sử dụng các khoa học xã hội; b) đối chiếu truyền thống đức tin với tình hình những người bị áp bức; c) phân tích những cách thức hành động cụ thể có thể áp dụng”, Teologia della liberazione, In Id. Nuovo dizionario teologico, Dehoniane, Bologna 2004, pp. 732 s.
[43] Trong Teologia della liberazione, o.c., trang 11-21 (cách riêng trang17-18), G. Gutierrez có nhắc đến sự khác biệt. Khi quan niệm rằng mặc khải như là Thiên Chúa truyền đạt các đạo lý cho con người hoặc các chân lý phải tin, thì thần học đi theo đường lỗi diễn dịch hoặc ít là đường lối suy diễn. Khởi đi từ những mệnh đề được cho là tuyệt đối, bởi vì được Thiên Chúa bảo đảm, nhà thần học tìm cách nắm bắt trong những khẳng định mặc khải các chân lý ám tàng, theo một cách thức có hệ thống. Khuôn mẫu kinh viện và tân kinh viện giả thiết rằng logos (lý lẽ) tự nhiên được phản ánh nơi logos của lý trí, nhờ đó có thể mang lại việc chấp nhận chân lý được biểu lộ bằng đức tin. Ai sử dụng phương pháp này thì cho rằng có thể vạch ra chân lý của các công thức đức tin, qua việc phấn tích những từ ngữ được sử dụng trong truyền thống Giáo hội và được giải thích bởi các nhà thần học và nhất là bởi huấn quyền. Đối lại, như công đồng Vaticanô II đã dạy trong hiến chế tín lý về mặc khải (Dei Verbum số 2), mặc khải được quan niệm như là một nhiệm cục những biến cố, và các biến cố là nơi mà Lời tạo dựng vang lên bằng những hình thức luôn luôn mới mẻ, thì việc nhớ lại một truyền thống trở thành việc thuật lại những biến cố cứu độ và chứng tá dẫn đến đức tin là việc kể lại các kinh nghiệm cứu độ, mà ý nghĩa luôn luôn có thể được nắm bắt một cách phong phú hơn.
[44] J. L. Segundo, Liberazione della teologia, Queriniana, Brescia, p. 17.
[45] P. Richard, La Iglesia Latino-americana entre el terror y la esperanza, DEI, San José, 1980, p. 24.
[46] L. e Cl. Boff, Come fare teologia della liberazione, Cittadella, Assisi 1986, pp. 106-107
[47] C. Palacio, Spostamenti della teologia, mutamenti socioecclesiali. Percorsi recenti della teologia in Brasile, in Concilium, 3/2002, pp. 99-100 [449-450]. Tác giả kết luận: “Vào lúc đầu, thần học này không ăn khớp với các khảo luận thần học truyền thống… Mãi đến thập niên 80 – và do nhiều nhân tố từ bên ngoài, chẳng hạn mối nghi ngờ từ Vaticanô – THGP cảm thấy cần phải tổ chức thành một tổng bộ đạo lý mạch lạc”.
[48] J. B. Metz, Prefazione a G. Gutierrez, Theologie der Befreiung Mainz 199210 pp. 11-16. Traduzione italiana in J. B. Metz, Per una nuova cultura ermeneutica, in Id., Sul concetto della nuova teologia politica, 1967-1997, Queriniana, Brescia 1998 (BTC 101) (pp. 136-141), p. 137.
[49] Id., ib., p. 141.
[50] Theo G. Gutierrez, THGP có hai “trực giác trọng tâm: phương pháp thần học và viễn ảnh người nghèo”, La forza storica dei poveri, Queriniana, Brescia 1981, p. 254.
[51] L. Boff, Gesù Cristo liberatore, Cittadella Assisi 1973 (originale Vozes, Petropolis 1972); Id., Passione di Cristo-Passione del mondo, Cittadella, Assisi 1978 (nguyên bản năm 1977).
[52] J. Sobrino, Cristologίa desde America Latina. Esbozo a partir del seguimiento del Jesús histórico, CRT, Messico1977; Id., Gesù in America Latina, Borla, Roma 1986; Id., Gesù Cristo liberatore, Lettura storico-teologica di Gesù di Nazaret, Cittadella Assisi 1995. Id., La fede in Gesù Cristo. Saggio a partire dalle vittime, Cittadella, Assisi 2001.
[53] J. Sobrino viết rõ ràng như sau: “Điều khẳng định tích cực về Giáo hội của những người nghèo xét dưới khía cạnh thần học thì tương đối đơn giản: Thần khí của Đức Giêsu ngự nơi những người nghèo, và khởi đi từ những người này mà ngài tái tạo toàn thể Giáo hội … Giáo hội cần được xây lại từ những người nghèo, tìm ra nguyên tắc cơ cấu tổ chức và sứ mạng từ những người nghèo … Điều này có nghĩa là những người nghèo là nguồn mạch chân chính cho sự hiều biết chân lý và hành động Kitô giáo, và do đó cũng như của cơ cấu Giáo hội.” La Iglesia de los pobres, resurrección de la verdedera Iglesia (1978) in: Resurrección de la verdadera Iglesia. Los pobres, lugar teológico de la ecclesiologίa, Sal Terrae, Santander 1981 pp. 108-109. Xc. I. Ellacurίa, Los pobres, “lugar teológico” en America Latina, in Conversión de la Iglesia al Reino de Dios para annunciarlo y realizarlo en la historia, Sal Terrae, Santander 1984, pp. 153-178 (tr. it. Queriniana, Brescia 1992).
[54] Văn kiện kết thúc của Đại Hội Puebla nhận xét rằng thuật ngữ “Giáo hội nhân dân” có tích cách hàm hồ, và bày tỏ ra nhiều dè dặt: “Vấn đề ‘Giáo hội nhân dân’ nảy sinh từ nhân dân, gây ra nhiều vấn nạn. Nếu hiểu như là một Giáo hội tìm cách hội nhập vào các đám bình dân của đại lục, và do đó nảy sinh từ lời đáp trả của họ với Chúa, thì sẽ tránh được một vấn nạn xem ra trái ngược với một chân lý căn bản: Giáo hội luôn nảy sinh từ một sáng khởi từ trên cao, do Thánh Linh gợi lên và do Đức Kitô triệu tập. Tuy nhiên danh hiệu ‘Giáo hội nhân dân’ xem ra không được chính xác lắm. Nhưng nếu Giáo hội ‘nhân dân’ được hiểu như một Giáo hội khác biệt với Giáo hội ‘thể chế’ bị tố cáo là bị tha hóa, thì nó sẽ gây ra một sự chia rẽ trong lòng Giáo hội, và phủ nhận vai trò của hàng giáo phẩm, và điều này không thể nào chấp nhận được” (Puebla, Documento conclusivo n. 263).
[55] G. Gutierrez, La forza storica dei poveri, Queriniana, Brescia 1981 p. 269.
[56] J. B. Metz, Prefazione a G. Gutierrez, Theologie der Befreiung Mainz 199210 pp. 11-16. Traduzione italiana in J. B. Metz, Per una nuova cultura ermeneutica, in Id., Sul concetto della nuova teologia politica, 1967-1997, Queriniana, Brescia 1998 (BTC 101) (pp. 136-141) p. 138.
[57] Về nguồn gốc của thần học da đen, (tuy không mang tên là THGP nhưng thực chất là thế), xc. B. Chenu (a cura) La théologie noire américaine, Profac, Lyon 1982 (những bản văn định nghĩa thần học da đen); B. Chenu, Dieu est noir. Histoire, religion et théologie des Noirs américaines, Centurion, Paris 1977; Id., Teologie cristiane dei terzi mondi, (GdT 181), Queriniana, Brescia 1988, pp. 80-133.
[58] J. H. Cone, Teologia nera della liberazione e Black Power, Claudiana, Torino 1973, p. 1.
[59] AA. VV. (a cura di S. Torres - J. Eagleson), Theology in the Americas, Orbis Books, New York 1976.
[60] AA. VV., (a cura di S. Torres- V. Fabella V.) The Emergent Gospel. Theology from the Underside of History. Orbis Books, New York 1978.
[61] AA. VV., Irruption of the Third Word. Challenge to Theology, Orbis Books, Maryknoll 1983.
[62] Các nhà thần học châu Phi nói đến “cái nghèo nhân bản”. Tại đại hội các nhà thần học của Thế giới thứ ba năm 1981 ở New Delhi, thuật ngữ ấy được đón nhận: “Nếu phần lớn chúng tôi đã nói đến sự nghèo khổ vật chất, những người khác, nhất là các đại biểu miền Trung châu Phi, đã nhấn mạnh đến cái nghèo nhân bản và văn hóa qua đó họ nhận ra sự suy thoái của dân tộc. Chủ nghĩa thực dân đã gây cho các dân tộc này mất đi căn tính của mình, tính cách sáng tạo, phả hủy nếp sống và tổ chức các bộ tộc, và các giá trị của văn hóa và tín ngưỡng cổ truyền” (số 19). Đề tài được thảo luận rộng rãi trong một hội thảo giữa các nhà thần học châu Phi và châu Âu diễn ra tại đan viện dòng Biển đức Mont Febé a Yaoundé 4-11 aprile 1984. Xc Bullettin de théologie africane, nn. 13-14 (1985). Trong số các nhà thần học châu Phi quan tâm đến vấn đề giải phóng có Marc Ela, người Cameroun, xc. Fede e liberazione in Africa. Riflessioni e sfide all'occidente da parte di un teologo africano, Cittadella, Assisi 1986; La mia fede di africano, Dehoniane, Bologna 1987.
[63] Vào tháng 5 năm 1973 Hội đồng đại kết các giáo hội đã tổ chức một cuộc hội thảo tại Genève “Các thần học da đen và các thần học giải phóng Nam Mỹ”, trở thành cơ hội đầu tiên cho cuộc đối thoại giữa các đại biệu thuộc nhiều đại lục, và để lôi kéo chú ý các nhà thần học châu Âu. Xc J. H. Cone, From Geneva to Sao Paolo: A Dialogue between Blak Theology and Latin American Liberation Theology, in The Challenge of Basic Christian Communities, Orbis Books, Maryknoll 1981, pp. 265-281.
[64] J. Ramos Regidor , La teologia della liberazione, Edup, Roma 2004 pp. 91s.
[65] Xc. E. Balducci E., La terra del tramonto. Saggio sulla transizione, Cultura della pace, Frenze 1992; Id., Montezuma scopre l’Europa, Cultura della pace, Firenze 1992; AA. VV., Cinque secoli di evangelizzazione in America Latina. Un bilancio, EMI, Bologna 1989.
[66] Xc. Ateek Maim Stifan, La giustizia e solo giustizia. Una teologia per la riconciliazione nel conflitto israelo-palestinese, Cittadella, Assisi 1991 (Nguyên tác tiếng Anh còn thêm phụ đề: A palestinian Theology of Liberation, Orbis Books New York 1989); M. H., Ellis, Hacia una teologia judia de la liberación, Dei, San José 1988; F. Wilfred, On the Banks of Ganges. Doing Contestual Theology, ISPCK, Delhi 2002 soprattutto, pp. 83-137.
[67] C. Molari, Papa Francesco e la teologia della liberazione, https://www.associazioneapito.org/app/download/11408685212/Carlo+Molari++11.10.pdf?t=1489146551&mobile=1
[68] J.C. Scannone, La teologia della Liberazione, AA. VV. Problemi e prospettive di teologia dogmatica, Queriniana, Brescia 1983, pp. 406-415.
[69] G.G. Vecchi, Quando Jorge era mio studente in seminario. Intervista a J. C. Scannone in Corriere della sera, 24 maggio 2013, p. 25.
[70] G. Műller – G. Gutierrez, Povera per i poveri. La missione della chiesa. Libreria Editrice Vaticana, Vaticanô 2014.
[71] Thực ra hồng y Müller đã quen thân với cha Gustavo Gutierrez từ năm 1988, khi còn là giáo sư tại đại học Ludwig Maximilian (Munich). Từ đó, trong suốt 15 năm, vào mỗi kỳ hè, vị giáo sư này sang dạy một lớp ở chủng viện Cuzco. Những kinh nghiệm thu thập được đã đúc kết thành một quyển sách xuất bản năm 2004: “Đứng về phía người nghèo. Thần học giải phóng”.
[72] https://www.vaticannews.va/es/papa/news/2018-06/papa-francisco-saludos-carta-gustavo-gutierrez-90-cumpleanos.html. Gustavo Gutierrez Merino sinh tại Lima ngày 8/7/1928. Gia nhập chủng viện năm 24 tuổi, được gửi đi du học Âu châu (Louvain, Lyon) từ năm 1951 đến 1959 tức là năm thụ phong linh mục. Cha còn học thêm một năm ở Roma, sau đó hồi hương năm 1960, vừa dạy học vừa phụ trách mục vụ giáo xứ. Năm 2001, cha gia nhập dòng Đaminh ở Lyon (Pháp).