Thứ Hai, 21 tháng 11, 2022

TIN MỪNG SỰ SỐNG

Thời sự Thần học - Số 3, tháng 06/2008, tr. 25-32 

_Phaolô Nguyễn Hải Đăng 🙋 


Tin Mừng Sự Sống là trung tâm sứ điệp của Đức Giêsu, được khai mở ngay buổi bình mình của ơn cứu độ: “Này ta báo cho anh em một niềm vui lớn là niềm vui cho toàn dân: hôm nay đã sinh ra cho anh em Vị Cứu Tinh, Ngài là Kitô, Đức Chúa, trong thành của Đavít” (x. Lc 2,10-11). Tin mừng đó đã được Giáo Hội đón nhận và không ngừng loan truyền cho con người thuộc mọi thời đại và mọi nền văn hóa. Việc bảo vệ và làm thăng tiến giá trị sự sống trước những đe dọa của nền văn hóa sự chết phải là sứ vụ tiên quyết của mọi Kitô hữu vì qua Mầu nhiệm Nhập Thể, Ngôi Hai Thiên Chúa đã kết hiệp chính mình với bất kỳ con người nào. Ba huấn quyền của Công đồng Vaticanô II về giá trị thánh thiêng của sự sống vẫn khẳng định tính thời sự và lập trường của Giáo Hội trước những thế lực đang nhằm thao túng sự sống của chính con người trong thế giới đa diện hôm nay: tất cả những gì chống lại sự sống như giết người, diệt chủng, phá thai, an tử; tất cả những gì xâm phạm đến sự toàn vẹn con người cả về thể xác và tinh thần; tất cả những gì xúc phạm đến phẩm giá con người, biến con người trở thành ngang hàng như dụng cụ thuần túy để thu lợi. Tất cả những hành động đó là hành vi xúc phạm nặng nề đến vinh danh của Đấng Tạo Hóa.[1]

1. Thiên Chúa-nguyên ủy sự sống


“Sự sống của con người là thánh thiêng, bởi vì ngay từ nguồn gốc nó bao hàm “hành động sáng tạo của Thiên Chúa” và mãi mãi nằm trong một mối quan hệ đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, cứu cánh duy nhất của nó.”[2] Như vậy đối với Kitô giáo, sự sống không còn là một ý niệm phổ quát, ngoại tại nhưng là một thực tại mang tính ngôi vị cụ thể. Con người được tạo dựng vì chính mình và mỗi nhân vị là một phản ánh sống động về chính Thiên Chúa, nguyên ủy sự sống. Con người không có quyền trực tiếp can thiệp vào hành vi hủy diệt sự sống vì sự sống là giá trị thánh thiêng phản ánh chính sự bất khả xâm phạm của Đấng Tạo Hóa (x. St 1, 26-28).

Kinh nghiệm lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy rằng những biến cố Cựu Ước chính là hình ảnh tiên báo và cuối cùng được hoàn trọn nơi chính Đức Kitô. Sứ điệp về Sự Sống đã được chuẩn bị ngay trong Cựu Ước với biến cố Xuất Hành, trọng tâm kinh nghiệm đức tin của dân tộc Israel. Trước mối đe dọa tàn sát tất cả hài nhi sơ sinh của vua Pharaô và sự giải thoát đầy yêu thương của Thiên Chúa, dân Israel nhận ra rằng: sự sống khởi phát từ chính Thiên Chúa, vì thế con người không ai có quyền định đoạt về sự sống của chính mình và của người khác. Kinh nghiệm này lớn dần trong tương quan tín trung với Thiên Chúa. Dân Israel nhận biết được rằng, chính Thiên Chúa là nguồn cậy trông và là Chủ Tể sự sống vì “tất cả những vật Chúa ban đều tốt trong thời chúng; Chúa đã đặt trong lòng chúng tổng số thời gian” (x. Gv 3,11).

Sự sống con người là một điều thiện hảo vượt xa sự sống của bất kỳ sinh vật nào. Dù được tạo nên từ bụi đất (x. St 2,7; 3,19; Tv 103) nhưng con người là họa ảnh biểu lộ vinh quang Thiên Chúa, là dấu chỉ về sự hiện diện của Người (x. St 1, 26-27; Tv 8, 6). Con người được trao ban phẩm giá trổi vượt vì có sự nối kết mật thiết giữa con người và Đấng Tạo Hóa nên mình. Chính sự nối kết này là dấu ấn thần linh thôi thúc con người vươn đến nguồn mach sự sống phát sinh chính mình là Thiên Chúa.

Kitô giáo với chủ thuyết nhân vị là một đóng góp quan trọng cho việc thăng tiến giá trị con người. Kitô giáo đem đến một nhãn quan hoàn toàn mới khi trình bày con người là một hữu thể cứu cánh tại thân và mọi nhân tố ngoại tại chỉ có giá trị trong mối tương quan với con người. Sự sống là giá trị thánh thiêng bởi nó được gắn kết với con người như một họa ảnh của Thiên Chúa.

2. Chiều kích nhân vị-sự đóng góp của Kitô giáo


Thực tại về con người là vấn nạn của lịch sử: con người là ai? Có rất nhiều quan niệm khác nhau về nó. Nhưng tất cả chỉ là những ý niệm cực đoan thái quá khi tán dương con người như một chuẩn mực tuyệt đối hay tiêu cực yếm thế khi tỏ ra hoài nghi, lo lắng về ý nghĩa hiện hữu của con người. Giáo Hội được đón nhận mặc khải từ chính Thiên Chúa có trách nhiệm trình bày những nền tảng chân lý đức tin về thân phận và giá trị đích thật của con người, những yếu hèn và cả phẩm giá bất khả xâm phạm.

Kinh thánh Kitô giáo xác định con người được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa” có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Dựng nên mình và được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất (St 1, 26; Kn 2, 23) để cai trị và sử dụng chúng mà ngợi khen Thiên Chúa (Hđ 17, 3-10).[3]

± Con người là thực tại hợp nhất hồn và xác. Xét về thể xác con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất. Nhờ con người những yếu tố ấy đạt đến tuyệt đỉnh và tự do nội tại của chúng là chính Đấng Tạo Hóa (Đn 3, 57-90). Vì vậy con người không được khinh miệt đời sống thể xác, nhưng trái lại phải tôn trọng vì đó là công trình sáng tạo yêu thương của Thiên Chúa. Thân xác sẽ phục sinh trong ngày sau hết để hiệp nhất trong sự sống viên mãn là chính Thiên Chúa. Hơn nữa, niềm tin Kitô giáo khi nhìn nhận có một linh hồn thiêng liêng, bất tử, con người không thể bị mê hoặc bởi một thứ ảo ảnh phát sinh do những điều kiện vật lý và xã hội nhưng không ngừng được thôi thúc tìm đến nguyên ủy sự sống là Thiên Chúa.[4]

± Con người có phẩm giá, lý trí và tự do để kiện toàn công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Con người là thực thể cao quý, trổi vượt trên các loài thụ tạo khác bởi con người được thông dự vào ánh sáng trí tuệ của Thiên Chúa. Bản chất tri thức con người phải được kiện toàn nhờ sự hiểu biết.[5] Chính sự hiểu biết này lôi kéo một cách dịu dàng tâm trí con người tìm kiếm và yêu mến những gì là chân, thiện, mỹ. Hơn nữa, tận đáy sâu tâm hồn con người được Thiên Chúa phú bẩm một lề luật thánh hướng dẫn con người yếu mến và thi hành điều thiện cũng như xa tránh việc gian tà. Tuân theo lề luật ấy chính là thể hiện phẩm giá của con người. Lương tâm là điểm sâu kín nhất và là cung thánh nơi con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ. Như vậy, theo niềm tin Kitô giáo, phẩm giá con người gắn liền với ý chí tuân phục lương tâm trong sự tự do. Con người sẽ đạt đến phẩm giá đích thật mà Thiên Chúa phú bẩm một khi nhờ sự tự giải thoát khỏi mọi kiềm tỏa của đam mê và hướng đến sự toàn hảo là chính Thiên Chúa.

± Con người là hữu thể có cứu cánh tại thân. Trước cái chết, bản năng sinh tồn dày vò con người trong đau khổ và suy nhược bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời. Mầm sống vĩnh cửu nơi con người không thể giản lược vào nguyên vật chất, nên có xu hướng chống cưỡng lại sự chết. Nhưng Giáo Hội được Mạc Khải từ Thiên Chúa quả quyết rằng con người được Thiên Chúa dựng nên để đạt đến cứu cánh hạnh phúc.[6] Hơn nữa đức tin Kitô giáo còn dạy rằng chính tội lỗi gây nên sự chết nhưng sự chết bị đánh bại dưới ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô. Và con người được mời gọi thông hiệp vào sự sống vĩnh cữu của Người.

3. Tôn trọng và yêu quý sự sống-một yêu sách tuyệt đối


Sự sống của con người từ Thiên Chúa mà đến, đó là ân huệ, là hình ảnh và dấu ấn của Người. Thiên Chúa là Chủ Tể duy nhất của sự sống này: con người không thể định đoạt về nó.

Chính Thiên Chúa đã nhắc lại cho ông Nôe sau nạn Hồng Thủy: “Từ máu ngươi, là chính mạng sống ngươi. Ta sẽ đòi trả le … với mọi người: với từng người, Ta sẽ đòi trả lẽ về mạng sống anh em mình” (St 9,5).[7] Bản văn Kinh Thánh đã nhấn mạnh tính cách thiêng liêng của sự sống, có cơ sở nơi Thiên Chúa và nơi hành động sáng tạo của Người vì “con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa” (St 9,6) và “chính Chúa nắm trong tay hồn của mọi sinh linh và hơi thở của mọi xác phàm” (G 12,10).

Sự sống là giá trị thánh thiêng bất khả xâm phạm được khắc ghi từ thưở ban đầu trong lương tâm mỗi người. Câu hỏi: “Ngươi đã làm gì?” (St 4,10) mà Thiên Chúa chất vấn Cain sau khi hắn ra tay giết chết chính người em mình là Aben diễn tả kinh nghiệm: nơi đáy sâu lương tâm, mỗi con người luôn được nhắc nhở về tính bất khả xâm phạm của sự sống bản thân và người khác, vì nó là sở hữu và ân ban của Đấng Tạo Hóa.[8]

Khi trả lời cho câu hỏi của người thanh niên giàu có: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời”, Đức Kitô đã đưa một yêu sách tuyệt đối về giá trị sự sống: “Các ngươi đã nghe người xưa bảo: chớ giết người; kẻ giết người thì sẽ can án. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ bị can án” (Mt 5, 21-22). Như vậy, niềm tin kitô giáo không chỉ xem con người là trung tâm của công trình tạo dựng mà còn xác định trách nhiệm tôn trọng và yêu quý sự sống là một yêu sách tuyệt đối dành cho tất cả mọi người vì qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, chính Ngôi Hai Thiên Chúa đã kết hiệp chính mình với bất kỳ con người nào.[9]

4. Đức Kitô – Lời Sự Sống


“Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời Sự Sống” (x. 1 Ga 1,1).

Đức Kitô chính là Lời Sự Sống được mặc khải cho con người ngay trung tâm sứ mệnh cứu thế của Người: “Ta đến cho họ được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10). Sự sống “mới” đã được khai mở và con người được mời gọi thông hiệp trong chính nguồn sống viên mãn của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính trong sự sống này mà mọi giây phút hiện hữu và mọi chiều kích sinh tồn của con người trên trái đất này đều mặc lấy một ý nghĩa vĩnh cữu vì con người được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa.

Tin Mừng về Sự Sống không phải là một suy tư đơn thuần nhưng là một thực tại cụ thể, mang tính ngôi vị. Tin Mừng ấy là chính Đức Kitô-Lời ban Sự Sống. “Thầy là Đường, là Sự Thật và Sự Sống” (x. Ga 14, 60). Một lần nữa, chính Đức Giêsu đã mặc khải chính mình với Martha, chị của Lazarô: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Thầy, dù kẻ ấy có chết cũng sẽ sống và bất kỳ ai sống và tin Thầy, sẽ không chết bao giờ” (x. Ga 11, 25-26). Đức Kitô chính là nguồn mạch sự sống và bất kỳ ai tin vào người sẽ có khả năng nhận biết chân lý toàn vẹn về giá trị sự sống của con người. Con người chỉ có thể đạt đến sự sống viên mãn khi biết kết hiệp nên một với căn nguyên sự sống phát sinh chính mình. Chính chân lý kỳ diệu này đã khoác lên thân phận yếu hèn của con người một giá trị thánh thiêng, bất khả xâm phạm.

Tin mừng về Sự Sống này đã được ghi khắc vào tâm khảm con người ngay từ những giây phút hiện hữu đầu tiên và chính Đức Kitô bằng “tất cả sự hiện diện và biểu lộ về chính mình qua lời nói và việc làm, bằng dấu chỉ và phép lạ, và đặc biệt nhất, là bằng sự chết và phục sinh vinh hiển của Người để lôi kéo chúng ta ra khỏi chốn tối tăm tội lỗi và sự chết, và phục sinh ta cho chúng ta được sự sống đời đời.”[10]Vì vậy, bất kỳ sự can thiệp nào của con người nhằm thao túng sự sống đều là hành vi chống cưỡng lại ý định tốt lành ban đầu của Thiên Chúa. Mặc khải về Lời Sự Sống là chính Đức Kitô đã khẳng định sự linh thánh về sự sống thể lý và thiêng liêng của con người, ngay trong hành trình trần thế, đã nhận đầy đủ giá trị và ý nghĩa của nó: là được mời gọi vươn đến sự sống vĩnh cửu đích thật là chính Thiên Chúa.

Bằng chính cuộc đời của mình, Đức Giêsu cho chúng ta thấy mối liên hệ biện chứng giữa kinh nghiệm bấp bênh về sự sống và sự khẳng định giá trị của sự sống đó. Sự sống của Đức Giêsu được ghi dấu bằng sự bấp bênh ngay từ lúc Ngài sinh ra. Bị con người từ chối “không còn chỗ nào trong quán cho hai ông bà” (x. Lc 2,7), bị đe dọa bởi những thế lực thù địch đang tìm cách “giết hài nhi” (x. Mt 2,13), nhưng chính trong sự bấp bênh đó, quyền năng Thiên Chúa được tỏ lộ cách mạnh mẽ: sự sống sinh ra đây là ơn cứu độ cho nhân loại (x. Lc 2,14).

“Giàu có như Ngài mà vì anh em, Ngài đã nên nghèo khổ, ngõ hầu anh em nên giàu có nhờ sự khó nghèo của Ngài” (x. Cr 8, 9). Sự nghèo khó của Đức Giêsu mà thánh Phaolô diễn tả ở đây không chỉ là trút bỏ những đặc ân của thần tính mà còn là chia sẻ cảnh sống thấp hèn nhất, bấp bênh nhất của đời người (x. Ph 2, 6-7).[11] Đức Giêsu không chỉ đón nhận mà còn liên lụy trong những bấp bênh của cuộc sống con người để đến giây phút cuối cùng trên thập giá, người đã kiện toàn và phục hồi giá trị sự sống viên mãn bởi việc Ngài tự hiến trên thập giá, đã trở nên nguồn sống mới cho con người (x. Ga 12,32). Khi Ngài đối diện với những thế lực chống đối muốn hủy diệt sự sống của chính Ngài, Đức Giêsu không chút sợ hãi bởi niềm tin tưởng chắc chắn sự sống của Ngài lệ thuộc trong tay Chúa Cha. Vì thế, trên cây thập giá, Đức Giêsu đã thưa lớn tiếng: “Lạy cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (x. Lc 23,46). Lời trần tình cuối cùng của Đức Giêsu mặc khải cho con người: chính Thiên Chúa là nguyên ủy sự sống và Đức Kitô là Lời ban Sự Sống vì qua mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh, giá trị sự sống của con người được kiện toàn và trả về ý nghĩa đích thực của nó: vươn đến sự sống sung mãn nơi Thiên Chúa.

Kitô giáo xác định có sự sống đời đời sau khi con người kết thúc cuộc sống trần thế. Sự sống viên mãn ở đây không phải là thực thể mơ hồ, một sự phóng tưởng nhị nguyên tách biệt giữa thế giới hữu hình và vô hình nhưng được biểu hiện cụ thể nơi chính Đức Kitô là sự sống viên mãn-“Ai tin vào Ta sẽ được sự sống đời đời” (Ga 11,2 6). Chính Đức Kitô là Đấng từ trời xuống để ai tin vào Người sẽ có ánh sáng ban sự sống (Ga 8,12). Bất cứ ai tin và kết hiệp nên một với Người sẽ có sự sống đời đời vì chính bởi Ngài mà người ấy hiểu được những lời mạc khải và thông ban sự sống sung mãn cho cuộc đời mình,[12] đó là “Lời ban sự sống đời đời” mà thánh Phêrô đã tuyên tín: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy có những lời đem đến sự sống đời đời. Và chúng con tin và nhận biết rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6, 68-69). Nhận biết Thiên Chúa và Con của Ngài là tiếp nhận mầu nhiệm hiệp thông tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần vào đời sống của ta và ngay trong hiện tại đã hướng mở về cuộc sống mai hậu. Vì vậy, chân lý sự sống theo Kitô giáo, không chỉ gắn liền với nguồn cội phát sinh là Thiên Chúa mà còn nối kết vào cùng đích, vào vận mệnh của nó là được hiệp thông với Thiên Chúa, qua trung gian duy nhất là Đức Kitô. Rõ ràng, Kitô giáo chính là nền tảng siêu hình vững chắc có thể củng cố tính hướng đích của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở cả hai chiều kích: nguyên ủy sự sống là chính Thiên Chúa và cứu cánh kiện toàn là chính Đức Kitô.

5. Tin Mừng Sự Sống Kitô giáo-một giá trị phổ quát


Nếu con người tự bản chất vốn yêu sự sống và vì sự sống là một điều thiện hảo, thì tình yêu này còn tìm thấy một động lực, một sức mạnh, một mức độ sâu rộng trong những chiều kích thần linh của thiện hảo này. Theo viễn ảnh ấy, tình yêu đối với sự sống không chỉ giới hạn vào một không gian tương quan mang tính cá biệt nhưng tình yêu Kitô giáo mời gọi con người mở rộng tình yêu ấy trong mọi chiều kích để sự sống thật sự là nơi chốn gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân. Sự sống mà Chúa Giêsu trao ban cho ta không làm giảm giá trị cuộc sống ta trong thời gian, nhưng đón nhận giá trị ấy và dẫn đưa nó tới vận mệnh cánh chung: Ta là sự sống lại và là sự sống, ai sống và tin Ta sẽ không chết bao giờ (x. Ga 11, 25-26).[13]

Giới luật “ngươi chớ giết kẻ vô tội, người ngay lành” (Xh 23, 7) được ghi khắc trong giao ước Sinai đã khẳng định tính bất khả xâm phạm của sự sống trong Cựu Ước nhưng chưa đạt đến độ tinh tế và phổ quát của tình yêu. Vì vậy, chính Đức Giêsu đã đẩy Tin Mừng Sự Sống của Cựu Ước-bảo vệ và quan tâm đến những người có cuộc sống yếu kém và bị đe dọa: ngoại kiều, bà góa, kẻ mồ côi, người nghèo khổ, cả đến sự sống trước khi được sinh ra (x. Xh 21; 22) - đến một một chiều kích phổ quát: không chỉ giới hạn ở trách nhiệm trên cùng một dân tộc nhưng hướng đến người ngoại quốc, khách ngoại kiều và cả những kẻ thù. Người ngoài sẽ không còn là người ngoài nữa khi con người nhận thấy mình có trách nhiệm trên sự sống của người khác như dụ ngôn về Người Samari nhân hậu. Kẻ thù không còn là kẻ thù nữa đối với những ai quyết tâm yêu thương họ (Mt 5, 38-40; Lc 6, 27-35). “Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy mến yêu thù địch và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ các con, ngõ hầu các con trở nên những người con của Cha trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ người lành, và làm mưa trên người ngay kẻ ác” (Mt 5, 44-45). Như vậy, tình yêu Kitô giáo đòi buộc một thái độ tôn trọng và yêu thương tất cả mọi người và mọi sự sống. Vì mỗi người đều là phản ánh chính sự sống của Thiên Chúa và đều được mời gọi thông dự vào sự sống viên mãn mai hậu “vinh quang của Thiên Chúa là con người sống nhưng sự sống của con người là chiêm ngưỡng Thiên Chúa.”[14]

Kết luận 


Tin Mừng Sự Sống, trung tâm sứ điệp rao giảng của Đức Kitô phải được trình bày như một thành trì vững chắc nhằm bảo vệ và thăng tiến sự sống con người từ những giây phút đầu tiên cho đến khi từ giã cuộc đời. Sự sống con người tự bản chất là thánh thiêng bởi vì ngay từ nguồn gốc đã bao hàm “hành động sáng tạo của Thiên Chúa” và mãi mãi nằm trong mối quan hệ đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, cứu cánh duy nhất của nó. Duy chỉ Thiên Chúa là Chủ Tể Sự Sống ngay từ giây phút khởi đầu cho đến khi kết thúc: không ai trong bất kỳ trường hợp nào có thể đòi cho mình quyền trực tiếp hủy diệt một con người vô tội. [15] Nền tảng giáo lý này cần được thấm nhuần không chỉ trong lương tâm của mỗi con người mà còn được triển nở trong những giá trị văn hóa vốn ẩn chứa những điều thiện hảo.

[1] Hiến chế mục vụ Vui mừng và hy vọng, số 27.
[2] Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Ơn ban sự sống (22-2-1987), nhập đề, số 5.
[3] “Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay,” trong Thánh Công Đồng chung Va-ti-ca-nô II (Đà Lạt: Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh PIÔ X, 1972), tr.743.
[4] “Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay,” trong Thánh Công Đồng chung Va-ti-ca-nô II (Đà Lạt: Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh PIÔ X, 1972), tr. 746.
[5] Đó là thứ hiểu biết của người sáng suốt, không phải chì hiểu biết chân lý mà con thưởng thức ý nghĩa thâm sâu của chân lý dù chân lý đó là những nhận xét về thiên nhiên, về bản tính con nười hay về thế giới vô hình. Người học thức chưa chắc đã có thứ hiểu biết này, trái lại, kẻ vô học, mù chữ rất có thể lại được hứ hiểu biết đó.
[6] “Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay,” trong Thánh Công Đồng chung Va-ti-ca-nô II (Đà Lạt: Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh PIÔ X, 1972), tr.749.
[7] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin Mừng về sự sống, số 39, tr. 134.
[8] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin Mừng về sự sống, số 39, tr. 136.
[9] Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, vui mừng và hy vọng, số 22.
[10] Hiến chế Tín lý về mặc khải của Thiên Chúa Ngôi Lời Thiên Chúa, số 4.
[11] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin Mừng về sự sống, số 33, tr. 124.
[12] Jean Paul II, Humanae Vitae, Evangelium Vitae, Donum Vitae, bản dich Việt ngữ Gia đìnnh trong trái tim và ngôn sứ (Hà Nội: Tôn Giáo,2006), tr.132.
[13] Jean Paul II, Humanae Vitae, Evangelium Vitae, Donum Vitae, bản dịch Việt ngữ Gia đìnnh trong trái tim và ngôn sứ (Hà Nội: Tôn Giáo,2006), tr. 134.
[14] Irênê, Chống lạc giáo IV, 20,7.
[15] Thánh Bộ Giáo Lý đức tin, Huấn thị Ơn ban sự sống (22-2-1987), số 5.