“CÁC CHIỀU KÍCH THỰC SỰ” CỦA SỰ PHỤC SINH


Thời sự Thần học - Số 100, tháng 5/2022, tr. 186-215

_Lm. François Odinet_

Làm thế nào loan báo sự phục sinh cho những hạng người cùng đinh trong xã hội, được mang danh là Thế giới thứ tư? Theo linh mục Joseph Wresinski (1917-1988), người sáng lập tổ chức quốc tế ATD Quart-Monde, chính những người nghèo lại chứng tỏ niềm tin vào động lực phục sinh hơn ai hết. Trong bài này, tác giả, một linh mục giáo phận Havre và giáo sư tại trung tâm Sèvres, Paris, kể lại những kinh nghiệm chia sẻ với các sinh hoạt của nhóm hoạt động giữa những thành phần bên lề xã hội.

Nguồn: Les “véritables dimensions” de la résurrection, trong Nouvelle Revue Théologique 144 (2022) 541-558. Chuyển ngữ: tu sĩ Gioan Nguyễn Long Quân O.P.
  I  . Tại sao nói đến phục sinh khi đề cập đến những người khốn cùng?
  II. Phục sinh, chân trời hay động lực của lịch sử?
  III. Phục sinh, tạo dựng mới hay là tiếp cận sự tạo dựng?
  IV. Vượt qua cái chết: ngày mai hay hôm nay?
  Kết luận: niềm hy vọng cho tất cả mọi người.

Lưu ý về việc chuyển dịch vài từ ngữ :
- Thế giới thứ tư (Quart-Monde, Fourth World). Đây là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả các khu vực kém phát triển, nghèo đói và bị thiệt thòi nhất trên thế giới. Trong thời kì Chiến tranh lạnh, mỗi quốc gia được xếp vào một loại thế giới nhất định. - Thế giới thứ nhất mô tả các quốc gia có quan điểm phù hợp với NATO và chủ nghĩa tư bản. - Thế giới thứ hai đề cập đến quốc gia ủng hộ chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô. - Thế giới thứ ba nói đến các quốc gia không có sự liên kết tích cực với hai bên. Những quốc gia này bao gồm các thuộc địa cũ nghèo khó của châu Âu và tất cả các quốc gia châu Phi, Trung Đông, châu Mỹ Latinh và châu Á. Thuật ngữ Thế giới thứ tư ra đời sau đó như là một phần mở rộng của Thế giới thứ ba, nó mô tả các khu vực và dân cư có đặc trưng là thu nhập bình quân đầu người cực kì thấp và tài nguyên thiên nhiên hạn chế.
- Hạ-vô-sản (hoặc: “vô sản lớp dưới” sous-prolétariat) ám chỉ những tầng lớp vô sản xơ xác và bị bóc lột hơn hết, không có công ăn việc làm vững chắc và cũng thiếu ý thức tổ chức giai cấp. Hiện tượng này thường gặp thấy nơi các đô thị lớn.
- Từ “cùng khốn” được dùng thay cho “người nghèo nhất” (les plus pauvres)
- Tổ chức ATD Quart Monde (ATD: Aide à Toute Détresse được thành lập năm 1957, và từ năm 2009 đổi tên thành Agir Tous pour la Dignité ; All Together in Dignity)


Trong một hội nghị được tổ chức tại Viện Nghiên cứu Thần học ở Bruxelles năm 1975, linh mục Joseph Wresinski, nhà sáng lập ATD Quart-Monde đã khẳng định: “Những người bị tước đoạt tất cả mọi thứ nhiều nhất cũng là đám dân phục sinh”[1]. Cha giải thích như sau:
Các gia đình hạ-vô-sản (sous-prolétariat) chịu đủ mọi lầm than khổ sở; họ bị chúng đè nặng, bị tê liệt cả về thể chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, họ luôn luôn và rất nhanh chóng sống lại và phục hồi. Tôi luôn ấn tượng với sự phục hồi liên tiếp của những người này. Họ không bao giờ ngừng đứng lên sau những lần vấp ngã, tai ương, hay sự dữ nào, ra như họ không có thời gian để dừng lại, để thở, để than, để chết, hay bất cứ điều gì sẽ tới. Vì cuộc sống và những đòi hỏi của nó là quy luật và chúng bó buộc bạn. (...) Sự tái sinh liên tục của đám dân hạ-vô-sản vào cuộc đời bình thường và niềm hy vọng, những sự thai nghén trong đau khổ và tủi nhục, nhắc nhớ thế giới về các chiều kích thực sự của sự phục sinh.[2]
Ở đây, chúng tôi muốn khám phá “các chiều kích thực sự của sự phục sinh” được tỏ lộ qua cuộc sống hằng ngày của những người cùng khổ[3]. Trước hết, vấn đề đặt ra là liệu việc quy chiếu đến sự phục sinh có phù hợp để xác định sự hiện hữu của những người bấp bênh nhất hay không: ít nhất chúng ta có thể nói rằng, việc quy chiếu này hóa ra lại phản trực giác. Kế đến, chúng ta sẽ đọc một số tuyên bố của những người từ Thế giới Thứ tư, trong đó có thể nhận ra những kinh nghiệm về sự phục sinh. Rồi chúng ta sẽ thấy rằng, những lời tuyên bố này mở ra những viễn tượng mới về thần học phục sinh. Như thế, “các chiều kích” bất ngờ của đức tin chúng ta được soi sáng nhờ sự đồng hành với những người cùng khốn nhất.

I. Tại sao nói đến phục sinh khi đề cập đến những người cùng khốn?


Nói đến phục sinh khi đề cập đến những người cùng khốn thì rõ ràng là đang đề xuất một lối đọc thần học về một số kinh nghiệm của họ. Lối đọc này được phát triển bằng cách lắng nghe những lời tuyên bố của những người đang ở vào những tình thế rất mong manh, và thậm chí đối thoại với họ, để không tùy tiện áp đặt một công thức giải thích nào hết[4]. Việc đối thoại như vậy có thể trả lời cho một câu hỏi lưỡng diện: điều gì trong cuộc sống của những người thuộc Thế giới Thứ tư cho phép họ có thể gọi đó là sự phục sinh mà không sợ bị hiểu sai? Ngược lại, điều gì trong niềm tin của các Kitô hữu về sự phục sinh cho phép họ có thể phân biệt sự tương ứng giữa tín điều này với sự hiện hữu của những người cùng khốn?

1. Người nghèo, “những người chết trước giờ”


Làm sao mô tả được những thách đố vốn là đặc trưng của cái nghèo, sự bấp bênh, sự hiện hữu đơn độc của dân “Thế giới Thứ tư”? Khẳng định sau đây mà phần lớn do cha Joseph Wresinski đề ra[5], đã nhận được sự đồng thuận: tình trạng bấp bênh do nhiều yếu tố gây ra. Rõ ràng đây là câu hỏi thuộc lãnh vực kinh tế, nó đụng chạm đến sự loại trừ của xã ​​hội trong mọi cấp độ nghiêm trọng của nó, nó bao gồm chiều kích của sự xuống cấp về văn hóa - và đôi khi là sắc tộc. Nếu sự đan quyện này giữa các yếu tố cho phép người ta có thể mô tả sự bấp bênh và xem xét nó về mặt chính trị, thì điều đó vẫn không đủ để lý giải chiều sâu khủng khiếp của nó trên bình diện hiện sinh. Cuối cùng, chúng ta có thể mô tả sự nghèo đói như một vấn đề sinh tử. Như nhà thần học người Peru, Gustavo Gutiérrez, đã viết, người nghèo là “những người chết trước kỳ hạn”[6]. Phải thừa nhận rằng, cái chết là một hiện tượng bình thường, nhưng người nghèo không chết “như mọi người”: cái chết của họ không chỉ là một sự đáo hạn về mặt sinh học của một hiện hữu, mà còn là hệ quả của bất công. Tất cả cuộc đời của họ bị bao phủ bằng một mối đe dọa thường trực: đó là một cuộc đời nằm trong bóng tối của sự chết (Lc 1,79). Thậm chí người ta có thể nói đến “cái chết xã hội” để chỉ mức độ nghiêm trọng tận căn của hiện tượng bấp bênh, mà những hậu quả tâm lý và xã hội của nó đã gây ra “sự thất bại” của cá nhân sánh được như cái chết.[7]

Do đó, cái chết chắc hẳn là chân trời của mọi hiện hữu của con người, nhưng mối đe dọa của nó không đè nặng lên mọi hiện hữu một cách ngang nhau. Đó là lý do tại sao cha Joseph Wresinski gọi những người cùng khốn là “những tử thi-sống” (morts-vivants): “Điều bất hạnh tồi tệ nhất là biết rằng bạn chẳng là gì cả, đến độ ngay cả với những đau khổ của bạn cũng không được nhận ra. Tồi tệ nhất là bạn bị đồng bào mình khinh thường (...) Bất hạnh lớn nhất của cái nghèo cùng cực là cả đời giống như một cái tử thi-sống.”[8]

2. Một đám dân chịu đóng đinh


Khi nói về sự phục sinh thì dĩ nhiên giả thiết là ta đang nói về cái chết, nhưng đồng thời ta cũng nghĩ tới chuyện chết vì cái gì. Chúng tôi vừa thực hiện bước đầu tiên theo hướng này. Nhiều thần học gia giải phóng đã thực hiện bước thứ hai. Họ lưu ý rằng, khi làm cho Đức Kitô phục sinh, Thiên Chúa không làm cho Con của Ngài chỗi dậy từ một cái chết yên lành, nhưng là cái chết ô nhục và thô bạo. Do đó, để nói về sự phục sinh, chúng ta phải đồng ý với nhau về ý nghĩa của thập giá. Nếu không phân định được vì cớ gì và tại sao Đức Kitô lại chết, thì chúng ta sẽ không hiểu được ý nghĩa của sự phục sinh của Người.

Các thần học gia như Ignacio Ellacuría và Jon Sobrino đã đồng hóa cái chết của Đức Kitô với cái chết của những người rất nghèo[9], những nạn nhân của các bộ máy kinh tế, xã hội và chính trị, được mô tả là áp bức[10]. Đối với họ, thập giá của Đức Giêsu không phải là thập giá duy nhất của lịch sử, cũng chẳng phải là thập giá đầu tiên. Kiểu nói như vậy không hạ giá tính độc nhất của Đức Kitô hay sứ mạng cứu độ của Người, mà trái lại: đó là để trân trọng cách thức mà Đức Giêsu đã chết. Người chịu đựng bạo lực mà vô số người nghèo và người bị áp bức phải gánh chịu trong suốt lịch sử nhân loại, vì thế việc nhận thức được bạo lực mà người nghèo phải gánh chịu phản ánh sự hiểu biết của chúng ta về thập giá Đức Kitô. “Chết vì bị đóng đinh thì không chỉ đơn thuần là chết, mà còn là bị xử tử.”[11]

Theo quan điểm của hai nhà thần học vừa kể trên, chúng ta có thể nói về một “đám dân bị đóng đinh”[12], để chỉ những người phải chịu đựng sự hành hạ này do áp bức và bất công, mà chính Đức Giêsu đã gánh lấy. Từ đó, điều khiến ta có thể nhận ra một sự đồng nhất nào đó nơi “đám dân của sự phục sinh”, trước hết chính là… khổ hình thập giá. Có thể nhận ra một sự tương đồng thực sự giữa những gì mà “những người rốt hết” của thế giới chúng ta phải gánh chịu với thập giá Đức Kitô.

Điều này không thể được tóm tắt vào sự kiện Đức Giêsu chịu chết: chúng ta hãy nhắc lại này, Người không chết bằng bất cứ cái chết nào. Không thể nào phủ nhận rằng Người đã chết “trước kỳ hạn”. Người chết vì bạo lực và bất công tập trung chống lại Người; vì lý do này, chúng ta có thể nói rằng Người chết bằng cái chết của người nghèo. Sau đó, sự phục sinh xuất hiện như một công trình của công lý và sự thật của Thiên Chúa. Nếu người nghèo có thể kinh nghiệm về sự phục sinh, thì đó là bởi vì công lý không thể nào bị bạo lực và bất công khuất phục hoàn toàn.

3. Sức mạnh đáng kinh ngạc của người nghèo


Đúng thế, sự kháng cự của những người cùng khổ trước những gì liên tục đe dọa vùi dập họ là lý do đầu tiên giải thích tại sao cha Joseph Wresinski coi Thế giới Thứ tư là “đoàn dân của sự phục sinh”. Cha làm nổi bật sức mạnh cho phép họ liên tục vượt qua những thử thách và những mối đe dọa đổ dồn về phía họ. Chúng ta thường phân tích sự hiện hữu của những người bấp bênh nhất từ ​​những gì họ thiếu thốn hoặc từ những cái đè nén họ - bản thân chúng ta cũng bắt đầu từ đó. Tuy nhiên, những người cùng khổ đều biểu lộ sức kháng cự phi thường như nhau; họ vượt qua những điều có khả năng hủy diệt bất kỳ ai gấp mười lần. Họ tiếp tục chiến đấu để khẳng định phẩm giá của mình, để chăm lo cho con cái, để có thể tồn tại ở một nơi dường như không thể sống được.

Thử hỏi sức mạnh đáng ngạc nhiên này của người nghèo có một ý nghĩa thần học nào không? Nếu có, trong mức độ đó là vấn đề thường xuyên phải đối mặt với cái chết đang đe dọa, thì làm sao không nghĩ đến sự phục sinh? Chính ở đó, chứ không phải bất kỳ nơi nào khác, mà sức mạnh của Thiên Chúa được thể hiện - không phải như một sức mạnh tàn bạo và đe dọa, nhưng là một tiềm lực của sự sống và sự cứu rỗi.

Cha Joseph Wresinski không hề phóng đại sức mạnh này nơi những người cùng khổ ra như nó là mục tiêu của một chọn lựa có tự do. Đúng hơn, cha trình bày nó như một điều tất yếu tuyệt đối. Đây chính là nơi mà cái giá phải trả của chuyện sinh-tử xuất hiện: những người cùng khổ thể hiện sức mạnh đáng kinh ngạc, vì nếu không, họ sẽ phải chết. Sự sống của họ, việc giữ vững cuộc sống và phẩm giá cuộc đời của họ, đều ở mức giá này.
 

4. Sự phục sinh trong thân xác


Nói về sự phục sinh có nghĩa là đề cập đến vấn đề thân xác. Khi sự phục sinh của Đức Kitô được công bố ở Giêrusalem, thì nó ngụ ý một điều gì đó chưa từng có đã xảy ra với thân xác của Người, đến nỗi sau khi Đức Giêsu được mai táng trong mộ thì không ai có thể tìm thấy thể xác của Người nữa[13]. Niềm hy vọng về sự phục sinh muốn nói rằng, khi chúng ta bước theo Đức Kitô, có thể thân xác của chúng ta cũng không bị cái chết nuốt chửng, nhưng sự sống mới sẽ được ban cho chúng ta nơi thân xác của chúng ta.

Bằng phép loại suy, có thể phân biệt “các kinh nghiệm phục sinh”[14], chính xác trong mức độ chúng ảnh hưởng đến thân xác của chúng ta, ngay cả khi thân xác bị cái chết đe dọa hoặc tác dụng tới. Ở đây, thân xác (chair) của chúng ta không bị thu hẹp vào thân hình vật chất (corporéité): thân xác liên quan đến toàn bộ dấu ấn mà chúng ta đã ghi khắc trong lịch sử qua trung gian là thân xác hữu hình của mình. Các “kinh nghiệm phục sinh” là những khoảnh khắc hoặc quá trình mà ở đó người ta có thể nhận thức được những điểm tương đồng (loại suy) với các chiều kích liên quan đến sự phục sinh của Đức Kitô do Tân Ước đề ra: hòa giải thì mạnh hơn phản bội; chỗi dậy thì mạnh hơn diệt vong; một niềm hy vọng không cho phép mình bị sụp đổ bởi những cơn gió trái chiều; một khả năng vượt qua bão táp dựa vào Thiên Chúa.

Như đã được công bố trong Kinh Tin kính của các Tông đồ - vọng lại sự phục sinh của Đức Kitô mà bản văn này nhắc lại ngay trước đó -, sự phục sinh của thân xác là một thực tại cánh chung tuyệt đối, ám chỉ sự biến hình cuối cùng của thế giới nhờ ánh sáng Đức Kitô. Tuy nhiên, chúng ta có thể nói được về những sự phục sinh trong thân xác. Số nhiều (những sự phục sinh) chỉ ra rằng, đây là rất nhiều kinh nghiệm, khác với sự phục sinh của Đấng Mêsia, nhưng hạn từ phục sinh chỉ ra tính xác thực của phép loại suy với sự phục sinh của Đức Giêsu: những sự phục sinh trong thân xác có thể được hiểu là những sự thông dự vào sự phục sinh của Đức Kitô. Cuối cùng, giới từ “trong”, được ưu tiên hơn giới từ “của”, chỉ ra rằng sự đổi mới hoàn toàn của nhân loại nơi thân xác của nó vẫn chưa xảy ra, nhưng những biến đổi như vậy đang xảy đến trong thân xác, nghĩa là cả trong tình trạng mỏng manh của nhân loại, dù không có bất kỳ lối thoát nào khỏi sự mỏng manh này.

Sau khi xác định rõ những điều kiện nào mà ta có thể nói về những kinh nghiệm phục sinh của những người thuộc Thế giới Thứ tư, giờ đây chúng ta có thể phân biệt một số đặc trưng của những kinh nghiệm đó. Chúng tôi đề xuất một thứ mẫu hình, tuy không quên rằng kinh nghiệm của một người có thể là thành phần cấu thành của nhiều người có cùng đặc điểm: các “mẫu” được đánh dấu ở đây không hẳn tương ứng với những kinh nghiệm không đồng nhất với nhau.

II. Phục sinh, chân trời hay động lực của lịch sử?


1. Marie-Noëlle: sự ghi khắc vào lịch sử


Marie-Noëlle là thành viên của nhóm người Paris, La Pierre d’Angle[15], một hội huynh đệ quy tụ những người từ Thế giới Thứ tư và cũng có sự tham gia của những người khác nữa, để đồng hành với họ. Ngày 23 tháng Giêng năm 2015, nhóm suy niệm sự chữa lành một người bại liệt được kể trong Ga 5,1-16.

- Marie-Noëlle: Việc Đức Giêsu yêu cầu anh ta (người bại liệt) làm việc này (vác chõng của anh) là điều bình thường, để anh ta yên tâm; bởi vì Đức Giêsu mong muốn, không phải để chứng tỏ sức mạnh với anh ta, mà để trấn an anh, bởi vì cho dù Người chữa cho anh, Người đã chữa khỏi cho anh, nhưng việc đưa anh ta về nhà không phải là việc của Người. (...)

- Maryvonne (điều phối viên): Đối với bạn, điều quan trọng là Đức Giêsu đã nói với người bại liệt: “Hãy vác chõng mà đi”.

- Marie-Noëlle: Đúng thế! Bởi vì, nó giống như khi người ta nói với bạn: “Của bạn đây này”. Đó là một món quà: “Cái gì vậy?” - “Ô, thì bạn cứ mở nó ra đi, để xem nó là cái gì” và bạn vui mừng ngay lập tức. Thế thì Người cũng như vậy, cuối cùng Người vẫn không muốn làm thay cho anh ta, điều đó cốt để anh ta thấy bằng chứng. Nó giống như một niềm vui Người dành cho anh ta, một sự thương xót, một phép lạ. Vì anh ta không mong đợi, nên Người mới nói với anh: “Anh hãy chỗi dậy, vác chõng mà đi!” Rồi cứ thế anh ta trả lời: “Được rồi, tôi đang cố”, trong khi cố gắng, anh ta tự nói với mình: “Ô, đúng rồi.”

- Maryvonne: Trước đây, cần phải có người khiêng.

- Marie-Noëlle: Đúng.

- Maryvonne: và bây giờ anh ấy đã có thể vác chõng.

- Marie-Noëlle: Đúng rồi, đúng rồi. Đức Giêsu không trấn an anh ta, rằng quyền năng và sức mạnh của Đức Giêsu, và rằng Người có khả năng; Người không làm thay cho anh ta! Bởi vì đó là một phép lạ, đó là điều chúng ta mong đợi, đó là một sự thương xót. Đối với tôi, đó là một sự thương xót. Và lòng thương xót này: “Cứ tiến lên, rồi bạn sẽ thấy.”

- Maryvonne: Cứ tiến lên, tôi không phải là người khiêng chõng cho bạn.

- Marie-Noëlle: Đúng rồi. “Cứ tiến lên, và bạn sẽ thấy.” Vâng. “Bạn sẽ thấy.” Điều đó thật tuyệt vời. Giống như hôm nay, người ta cấp cho tôi một công việc để làm, họ không làm thay cho tôi mà chỉ nói: “Cứ đi, rồi bạn sẽ thấy, mọi chuyện sẽ ổn thôi.” Và tôi đi tới đó, ôi, sự thật đúng như vậy. Và trong trình thuật cũng đúng như vậy, việc tiến lên phía trước là tùy thuộc vào anh ta, bởi vì Đức Giêsu đã đoan chắc với anh.

- Maryvonne: Đức Giêsu có chắc là anh ta sẽ vác được nó không?

- Marie-Noëlle: Có chứ, vì Người đã chữa cho anh ta, nên Người mới nói: “Anh hãy chỗi dậy.” Bằng cách chỗi dậy, anh ta sẽ tự chữa cho mình.[16]

Khi cuộc trò chuyện diễn ra, chúng ta nghe Marie-Noëlle chỉ ra sự hiểu biết của bà về lời mời gọi chỗi dậy vác chõng vốn đóng vai trò trung tâm trong quá trình chữa lành người bại liệt này. Lúc đầu, lời kêu gọi này dường như được đưa ra để “cho anh ta thấy bằng chứng”: Đức Giêsu sẽ trấn an người bệnh qua thực tế là việc chữa lành cho anh ta. Sau đó, Marie-Noëlle đi xa hơn: đó là một lời kêu gọi để làm thử. Dấu hiệu của lòng thương xót đích thực mà con người vừa được hưởng, đó là Đức Giêsu “không làm thay cho anh ta”. Đức Giêsu sẽ không vác chõng của người này, vì rõ ràng anh ta có thể chỗi dậy và “tiến bước”. Marie-Noëlle thậm chí còn đi đến khẳng định đáng kinh ngạc này: “Chính bằng việc chỗi dậy mà anh ta sẽ tự chữa lành cho mình.” Nói cách khác, “lòng thương xót” mà Đức Giêsu thực thi không chỉ liên quan tới sự hồi phục kỳ diệu của người bại liệt, mà còn liên quan tới lời mời gọi tiến bước bằng những sức lực của riêng anh ta, trên con đường của riêng anh ta. Đức Giêsu đưa người này trở lại lịch sử của riêng anh, mà không làm bất cứ điều gì “thay cho anh”; đó chính là ý nghĩa của lòng thương xót mà Người thực thi cho anh ta.

Marie-Noëlle bình luận về bản văn này bằng cảm hứng từ kinh nghiệm của chính mình[17]. Điều này trở nên rõ ràng khi bà nêu ví dụ về một công việc mới mà bà được khuyến khích đảm nhận, nhưng không ai có thể làm thay cho bà. Bà tiếp cận bản văn theo hai tầng nghĩa từ quan điểm phục sinh. Một mặt, nó có nghĩa đen là “chỗi dậy” - một trong những thuật ngữ được Tân Ước sử dụng để gọi sự phục sinh. Mặt khác, việc trở về với lịch sử của chính mình minh chứng cho một cuộc sống thoát khỏi sự vô nghĩa và hư hoại, để có thể bộc lộ bản thân nhiều hơn. Trong ví dụ của Marie-Noëlle, điều này cũng đúng: bằng cách bắt đầu một công việc mới mà chỉ bà mới có thể thực hiện, bà sẽ trở thành một diễn viên chính trong lịch sử của riêng bà và sẽ lấy lại vị trí xứng đáng của bà trong lịch sử chung, bằng cách hợp tác với người khác.

Những người cùng khổ thường cảm thấy rất bất lực trước những biến cố ập đến với họ; và khả năng đóng góp của họ vào lịch sử chung thường bị coi thường hoặc thậm chí bị phớt lờ. Kinh nghiệm về sự phục sinh hay chỗi dậy ở đây hệ tại ở chỗ được trở lại với lịch sử của riêng mình, mà không bị tách biệt khỏi việc tìm ra vị trí của mình trong lịch sử chung.

2. Phục sinh, động lực của lịch sử


Người ta thường chấp nhận rằng, sự phục sinh tương ứng với hành động cánh chung của Thiên Chúa. Chúng ta dễ suy luận rằng, sự phục sinh ám chỉ sự chiến thắng chung quyết của Thiên Chúa trên sự dữ hay cái chết. Tuy không phủ nhận chiều kích cánh chung này (x. 1Cr 15,50-57), chúng ta có thể nhận thấy điều đó được tiên báo trong sự kiện đơn giản là có sự sống ở nơi dường như không thể nào có được. Khi nói có sự sống hơn là cái chết, thì chẳng phải đó là kiểu nói đã dựa vào sự phục sinh rồi đó sao. Như vậy, sự phục sinh xuất hiện như động lực thực sự của lịch sử chứ không chỉ như chân trời tối hậu của nó. Không điều gì thuộc về chân trời cánh chung này bị chối bỏ, nhưng chúng ta hiểu rõ hơn việc ngự đến của Đức Kitô phục sinh đã tái đánh giá lịch sử như thế nào.[18]

Tác giả Tin Mừng Máccô (Mc 16,1-8) thuật lại việc các phụ nữ đến mộ Đức Giêsu, thấy tảng đá đã lăn ra một bên rồi và họ có thể đi vào. Lập tức, họ nghe thấy lời mời gọi hãy trở về: một cánh cửa đã mở ra cho họ để họ tiếp tục bước theo Đức Kitô, Đấng mà từ đó họ được (tái) biết rằng Người đang đi đường và Người sẽ đến trước họ. Sự phục sinh tương ứng với việc âu yếm mở ra một lối đi mà trước đây bị xem là ngõ cụt. Ngõ cụt căn bản này là ngôi mộ, mà cánh cửa bị đóng lại bởi một tảng đá lớn, được biến thành con đường mà Đức Giêsu bước đi, và các môn đệ cũng được mời gọi đi theo bước chân Người.

Những người cùng khổ hóa ra lại tỏ ra tài giỏi kỳ lạ trong việc mở ra những lối đi ở nơi chỉ toàn là ngõ cụt. Với họ, đó là vấn đề sinh-tử. Sự mở ra như vậy tương ứng với một kinh nghiệm thực sự về sự phục sinh. Đó không chỉ là lời hứa hẹn rằng sự sống sẽ chiến thắng cái chết nhờ hành động của Thiên Chúa vào ngày sau hết, mà còn là việc nhận ra ân sủng Thiên Chúa đang hoạt động để cho phép sự sống vượt qua cái chết ngay bây giờ. Theo cách này, sự phục sinh đã tái đánh giá lịch sử rồi; nó cho phép những người nghèo nhất, “những người rốt hết”, không bị tiêu diệt. Trái lại, họ cho thấy họ là “những người đầu tiên” có khả năng mở ra những con đường cứu độ.

III. Phục sinh, tạo dựng mới hay là tiếp cận sự tạo dựng?


1. Tania: cái nhìn thay đổi


Ngày 16 tháng 3 năm 2014, trong một cuộc gặp gỡ của Gia đình Bartimée (Famille Bartimée), một nhóm quy tụ những người ở Castanet-Tolosan đã và đang trải qua sự bấp bênh của cuộc sống, Tania đã bày tỏ bản thân như sau:

Tôi tin rằng, đến cuối cùng, khi chúng ta hiểu rằng chúng ta được hiểu, được chấp nhận như chính con người của chúng ta, và được yêu thương nhiều như thế, thì đó là lúc chúng ta được biến hình, chúng ta được biến đổi. Tôi biết rằng, trước đây tôi thực sự xấu xa, sân hận. Giờ đây, cái nhìn của tôi đã nhanh chóng thay đổi. Bây giờ tôi tự nhủ: “Thật tệ nếu họ không muốn giúp mình, nhưng mình sẽ chọn cách thức khác, thế thôi!” Nhưng trước đây tôi là người xấu, tôi biết mình đã làm điều gian ác, nhiều lắm, cả tức giận nữa. Và thực tế, nó đã biến đổi tôi... Tôi nhìn cuộc sống khác đi; việc bị chối bỏ từng có thể khiến tôi tức giận hơn, thì bây giờ, ngược lại, đôi khi tôi bật cười về điều đó. Vì vậy, sự biến hình nằm ở chỗ đó, nó là như thế! Và sau đó tôi cảm thấy bị loại trừ vì cân nặng của mình, vì thực tế là tôi khác với người khác, suy nghĩ này cứ hoài xâm chiếm tôi, ngay lúc này, ngay lúc này. Tôi ra đường, tôi làm cho mình nên trò cười, tôi đi trước mặt người ta và tôi cười với họ. Nhưng nếu là trước đây, tôi sẽ giết họ. Bạn thấy đấy, cái nhìn của tôi đã thực sự hoàn toàn thay đổi, thế đấy, chính cái nhìn của tôi đã thay đổi.

Tania vừa nói rằng, vài năm trước cô đã phải chịu đựng một sự “suy sụp hoàn toàn” vào lúc cô mang thai khi đã có một đứa con mới biết đi, cùng lúc đó cô và cha của đứa trẻ cùng bị mất việc làm. Bất chấp tất cả, điều “đã thúc đẩy cô tiến lên” là cuộc gặp gỡ với các Nữ tu Tin Mừng, những người đón tiếp và đồng hành với cô trong thời gian mang thai, cũng như với Gia đình Bartimée. Sau đó, Tania tham gia buổi họp mặt Diaconia vào năm 2013 ở Lộ Đức, trong thời gian đó, cô có niềm vui khi cảm thấy mình và các con không bị xét đoán.

Đây là lý do tại sao cô chọn bắt đầu sự can thiệp của mình ở đây, bằng cách tiếp nhận những gì có vẻ là thiết yếu đối với cô: khi “chúng ta được hiểu, chúng ta được chấp nhận như chính con người của chúng ta, lại còn được yêu thương nhiều như thế”. Tania đã có một trải nghiệm tương quan khỏe mạnh: việc được chấp nhận cho phép cô chấp nhận chính mình. Cô nhận ra một “sự biến hình”, được đặc trưng bởi việc từ bỏ “cái xấu” và “sự nóng giận” vốn đã in dấu vào lịch sử của cô. Cô cho biết mình đã vượt qua được tính hung hăng này: cô thích “cười lại” nhiều hơn với những người chế nhạo mình; điều này cho thấy bạo lực khiến cô muốn giết đối thủ đã được giảm bớt.

Tania kết thúc bằng cách chỉ rõ điều gì đã thực sự “biến đổi” trong cô: “Cái nhìn của tôi đã thực sự hoàn toàn thay đổi, thế đấy, chính cái nhìn của tôi đã thay đổi.” Sự thay đổi cái nhìn cho phép chúng ta có thể cùng hiểu “sự chấp nhận” bởi người khác, sự chấp nhận bản thân và được giải phóng khỏi bạo lực. Cái nhìn của người khác về Tania đã thay đổi và, nó sửa lại cái nhìn của Tania về chính mình; bằng cách này, cô có thể đối diện với cái nhìn của người khác - thường là một sự coi thường - một cách ít hung hăng nhưng tự tin hơn.

Do đó, đã có một sự mới mẻ thực thụ, một sự chuyển đổi sang “hiện nay” khác với thời “trước đây”. Tuy nhiên, sự mới mẻ này không thể nhìn thấy được từ bên ngoài: làm thế nào để chúng ta nhận ra sự thay đổi trong “cái nhìn”? Đó là sự biến đổi mối liên hệ của Tania với sự hiện hữu của riêng cô. Việc Tania nhanh chóng đề cập đến sự biến hình của Đức Giêsu âm vang chính xác những gì cô nói về thân thể mình: đó là toàn bộ thân thể của Đức Giêsu trải qua một sự biến đổi trong đoạn Tin Mừng này. Nhưng Tania chấp nhận ngoại hình của cô một cách tốt hơn, không chỉ về cân nặng mà còn (cô đã nói điều này ở phần đầu của bài chia sẻ) về vẻ khốn khổ qua bộ quần áo của cô và của những đứa con.

Sự phát triển của mối liên hệ với hiện hữu của chính mình thì khác với những gì Marie-Noëlle đã mô tả vì hai lý do. Trước hết, nó không phải là một sự ghi khắc không chắc chắn trong lịch sử, mà là một mối liên hệ mơ hồ với chính mình. Thứ hai, một sự biến đổi như vậy được khả dĩ và cụ thể hóa trong trò chơi tương quan. Tania đưa ra mô tả về “sự biến đổi” của cô, nhưng không giải thích về nó. Người ta không được đồng hóa các mối tương quan lành mạnh như là nguyên nhân có hiệu quả tự động; mà đúng hơn, chúng là những điều kiện của khả năng: “Chính (...) khi chúng ta hiểu rằng, chúng ta được hiểu, được chấp nhận như chính con người của chúng ta, lại còn được yêu thương nhiều như thế, thì chính ở đó chúng ta biến hình.” Những mối tương quan như vậy thiên về khía cạnh kết hợp kinh nghiệm hơn là một chuỗi quan hệ nhân quả: chúng được trình bày dưới dạng thời gian (“khi nào”) và địa điểm (“ở đó”) mà trong đó một sự thay đổi như vậy có thể diễn ra.

Chúng ta có thể nhận ra trong cuộc sống của Tania một kinh nghiệm về sự phục sinh: cô đã nếm nỗi đau của sự loại trừ, cô lập, khốn cùng và do đó cô phải đối diện với viễn tượng của cái chết. Cô đã từng nói về ý muốn tự tử nảy lên trong tâm trí khi cô “quẫn trí”; cô cũng mong muốn “giết” những kẻ đã làm tổn thương cô. Trong bối cảnh này, sự “thay đổi cái nhìn” mà Tania đề cập tới âm vang như một phương thế mới để được hiện hữu. Giống như trong các sách Tin Mừng, sự biến hình xuất hiện như một tiền đề của sự phục sinh, thì sự biến đổi này của Tania cũng âm vang như một trải nghiệm thực sự về sự phục sinh.

2. Tiếp cận việc tạo dựng


Đối với con người hậu hiện đại, việc chấp nhận sự kiện chúng ta được tạo dựng và ý nghĩa của việc tạo dựng là điều không hiển nhiên tí nào. Việc tạo dựng có thể được nhận ra như dấu chỉ của một món quà thực sự: thế giới được trao phó cho quyền tự do của con người, và đòi hỏi phải được giải mã để có thể nhận ra trong đó ý định của Đấng Sáng tạo[19]. Nhưng đối với những người cùng khốn, thì điều không hiển nhiên ấy lại tăng lên gấp đôi. Ý nghĩa của việc tạo dựng có thể mờ mịt, không chỉ do bản chất ý định của Đấng Sáng tạo, mà còn vì những gì hoàn toàn phủ nhận và trái ngược lại ý định này. Những người cùng khốn vẫn như bị gạt ra khỏi đời sống của họ; họ bám lấy nó chứ không thể cư ngụ trong nó. Đối với những người cùng khốn, việc biết rằng mình đang sống, việc chấp nhận cuộc đời của mình như là của riêng mình, việc sống trong cuộc đời, việc biết rằng mình có một chỗ đứng trong thế giới, những điều này hoàn toàn không phải là hiển nhiên. Do đó, chứng cớ không hiển nhiên của việc tạo dựng không chỉ là một câu hỏi về văn hóa; nó còn phụ thuộc vào lịch sử con người cùng những thử thách nặng nề đã có thể ghi đậm trên cuộc đời của họ. Thậm chí người ta có thể chân thành tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo, dù không có khả năng nói rằng người ta được tạo ra giống như tất cả những người khác, bởi vì mối đe dọa về cái chết và những thử thách khủng khiếp nối tiếp nhau có thể che giấu mối liên hệ của mỗi người với chính thân phận thụ tạo của họ. Do đó, chúng ta nhận ra rằng, thân phận thụ tạo không nhất thiết là một tin tốt: nó có thể có nghĩa là bị đưa vào hiện hữu, phải đối diện với nó trong những điều kiện tồi tệ, mà không thể cảm nếm cuộc sống như một món quà. Mối đe dọa về cái chết, vốn treo lơ lửng trên đầu những kẻ cùng khốn, có thể bắt nguồn từ việc thật sự không có khả năng tiếp cận việc tạo dựng.[20]

Do đó, phục sinh có thể mang nghĩa là tiếp cận việc tạo dựng. Việc vượt qua Biển đỏ của người Híp-ri nói lên một trực giác của trật tự này: những người bị đe dọa tính mạng (Xh 1-3) sống kinh nghiệm được sinh ra bằng cách ra khỏi dòng nước biển (Xh 14; Ds 11,12) vào đúng thời điểm mối đe dọa bị giết chết trở nên rõ ràng vì quân lính đang gần kề một cách nguy hiểm (Xh 14)[21]. Dân tộc này, được Chúa hứa ban cho tự do và trên hết là khả năng được sống, đi vào hiện hữu của chính họ. Điều này không phải là hiển nhiên: nhờ nhận được khả năng như vậy, dân tộc này cảm nghiệm được ân sủng của Thiên Chúa - Đấng hằng sống và là Đấng Sáng tạo.

Cũng vậy, khi Đức Kitô phục sinh, thì chính ý nghĩa của việc tạo dựng toàn thể nhân loại đã xuất hiện, được kêu gọi bước theo Người trong cuộc “xuất hành” (Lc 9,31) và trong cuộc khải thắng của Người. Bằng sự phục sinh, Đức Kitô thâu tóm đầy đủ ý nghĩa của việc tạo dựng nơi bản thân của Người (Ep 1). Do đó, trong niềm hy vọng được phục sinh vào ngày sau hết, chúng ta khám phá ra “sự viên mãn” (Ep 1,23) của việc tạo dựng. Sự phục sinh của thân xác ám chỉ thời điểm mà nhân loại sẽ tiếp cận việc tạo dựng trong sự viên mãn của nó, khi họ được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết[22]. Đối với những sự phục sinh trong thân xác, chúng tạo thành những dự kiến (anticipation), và thậm chí là những thông dự (participation) vào sự phục sinh: trong chúng, con người, đã và được tiếp xúc việc tạo dựng rồi.

Khả năng tiếp xúc việc tạo dựng này được Tania phát hiện trong một trò chơi tương quan. Đây là những gì cho phép có thể mô tả sự tạo dựng, không chỉ như một mối tương quan cơ bản với Đấng Tạo hóa theo quan điểm của thánh Tôma Aquinô[23], mà còn như được ban tặng trong các mối tương quan của con người. Cần có những mối tương quan đáng tin cậy này, những dấu chỉ và bằng chứng về sự bảo đảm của Thiên Chúa dành cho việc tạo dựng, để mỗi người có thể đi vào điều kiện riêng của mình trong thân phận thụ tạo. Vì hơn cả một sự tạo dựng “mới”, sự phục sinh ám chỉ đến sự giải tỏa cuộc tiếp xúc với việc tạo dựng.

IV. Vượt qua cái chết: ngày mai hay hôm nay?


1. Pierre: “cầm cự”, đó là vượt qua cái chết


Vào ngày 25 tháng Mười năm 2013, cuộc trò chuyện sau đây đã diễn ra trong nhóm La Pierre d’Angle ở Paris:

- Maryvonne (điều phối viên): Mỗi người chúng ta hãy thử nghĩ xem ai là những người cùng khốn nhất. Chà, thật thú vị. Pierre, anh nghĩ sao?

- Pierre: Những người cùng khốn nhất là những người không có của cải, tình yêu hay sự cầu nguyện. Anh ta đang cố... bám víu một thứ gì đó để... cầm cự!

- Maryvonne: Vâng. (Im lặng.) Này, Chờ một chút, bởi vì tôi thấy đúng. Điều bạn vừa nói thật là quan trọng. Bạn nói sao: anh ta bám víu một thứ gì đó để cầm cự, bạn nói như thế phải không?

- Pierre: Anh ta bám víu để thử… cầm cự và sau đó cầu nguyện. sau khi như thể thốt ra (lancer) những lời cầu nguyện.

Trong khi Maryvonne đặt câu hỏi cho Pierre về căn cước của một nhóm, bắt đầu ở số nhiều rồi chuyển sang số ít: nó gợi lên một hình mẫu của những người cùng khổ nhất. Pierre đưa ra một định nghĩa theo hai giai đoạn: đầu tiên như một lối phủ định, thiếu vắng ba thực tại quan trọng (của cải, tình yêu và cầu nguyện); sau đó, theo lối khẳng định, như một phép thử (essai).

Ba yếu tố theo lối nói phủ định có cường độ mỗi lúc một tăng thêm. Thiếu của cải là đặc điểm hiển nhiên của nghèo đói. Tiếp đến, thiếu tình yêu liên quan đến sự thân thiết cá nhân cách sâu sắc. Còn với sự thiếu cầu nguyện, nó có thể ám chỉ việc mất mọi sự hỗ trợ nội tâm. Pierre vẽ lên bức chân dung của một người mà mọi sự hỗ trợ cho anh ta sẽ mất đi dần dần. Đó là một cuộc sống với những dấu chấm lửng[24], đến độ không chắc có nên gọi là cuộc sống hay không nữa.

Giai đoạn thứ hai là một lối nói khẳng định. “Anh ta đang cố... bám víu một thứ gì đó để... cầm cự!” Cả cuộc đời của người cùng khổ mang đậm dấu hiệu của một phép thử. Sự mơ hồ của câu văn này cho thấy việc thử ấy bấp bênh đến mức nào, biết bao yếu tố làm nên chất lượng cuộc sống đã biến mất. “Cầm cự” có thể được hiểu như một từ đồng nghĩa với “bám víu”, hay theo một nghĩa tổng quát hơn: “bám víu” tức là tiếp tục sống.

Những lời của Pierre cho thấy khả năng của con người đã tới chỗ không thể chịu đựng được. Tuy nhiên, Pierre nhận ra một động lực đang tác động nơi người này, một “phép thử”. “Người cùng khổ” dường như đang tìm kiếm điều gì đó đảm bảo cho cuộc sống của họ được vững vàng: đây là cách họ “thử bám víu một thứ gì đó”. “Cầm cự”, trong khung cảnh này, không chỉ đơn giản là kéo dài hiện hữu trong đau khổ càng lâu càng tốt, mà là tuyệt đối chống lại sự đau khổ này.

Trong lần lên tiếng sau, Pierre tái định nghĩa “cầu nguyện” là “thốt ra những lời cầu nguyện”. Đó cũng chính là hành động bộc phát, là một ý định “bám víu” vốn đang hoạt động trong hành động cầu nguyện này. Ở đây, Thiên Chúa xuất hiện với tư cách là Đấng đảm bảo tối hậu cho sự sống, Đấng mà người ta có thể hướng về để “cầm cự” nhờ có Ngài. Bi kịch dẫn tới sự đánh mất mọi thứ để bám víu này rất nhạy cảm trong thực tế của việc “thốt ra những lời cầu nguyện”: vì người ta không biết liệu những lời cầu nguyện này có được lắng nghe hay không.

“Thốt ra những lời cầu nguyện”, như “bám víu” hoặc “cầm cự” đề cập đến một cử chỉ đơn giản mà cả người tiếp nhận lẫn hiệu quả đều không chắc chắn. Nhưng chính cử chỉ đó lại là dấu hiệu của một cuộc sống không chìm đắm. Năng lượng của “người cùng khốn” dường như hoàn toàn được chứa đựng trong cử chỉ này: nó chứng thực về một cuộc sống đang trong quá trình vượt qua bóng tối; một cuộc sống chống lại cái chết và sự “cầm cự”.

Chúng ta có thể nói về kinh nghiệm phục sinh, không phải vì hy vọng sẽ có một kết thúc có hậu, mà chính xác là khi vắng mặt cái kết có hậu này. Mầu nhiệm phục sinh được mặc khải trong khả năng của một sự sống chống lại sự hủy diệt, của một cử chỉ sự sống vượt qua cái chết đang đe dọa từ mọi phía. Bản thân phép thử có thể duy trì sự sống, vì phép thử này vẫn là một cử chỉ không dựa vào bất kỳ điều gì khác ngoài chính nó, có thể xuất hiện, tùy theo cách chúng ta nhìn về nó, hay là một cử chỉ tuyệt vọng -giống như chúng ta ném (lancer) cái chai xuống biển - của một người, bằng chính cử chỉ này, phải đối mặt với mối đe dọa to lớn và vượt qua nó. Theo nghĩa này, “bám víu” vào sự sống không chỉ là đối mặt với cái chết, mà còn vượt qua nó nữa. Bóng dáng của Thiên Chúa vẫn ở phía sau, trong tư cách là Đấng có thể bảo đảm cho sự sống.

2. Vượt qua cái chết ngay bây giờ


Cuộc đối thoại giữa Pierre và Maryvonne đưa chúng ta trở lại với giá trị cứu độ của sự phục sinh. Điều này thường được ẩn giấu, đến độ người ta chỉ coi giá trị cứu độ của cuộc Vượt qua của Đấng Mêsia phần lớn được giới hạn trong hy lễ thập giá của Người. Điều này dẫn đến việc giới hạn phạm vi cứu độ của mầu nhiệm vượt qua trong việc tha tội cho các tội nhân. Sự tha thứ này chắc chắn không phải là một thực tại không có trọng lượng (x. 1Cr 15,3; Lc 23,34), nhưng nó xứng đáng được đặt trong lĩnh vực cứu độ học một cách rộng lớn hơn.

Như chúng tôi đã nói, nếu xét việc Đức Kitô không sống lại từ bất kỳ cái chết nào, nhưng là một cái chết vừa bất công, vừa thô bạo và ô nhục, thì chúng ta có thể khẳng định rằng Người phục sinh từ cái chết của những người nghèo. Do đó, giá trị cứu độ đầu tiên của cuộc Vượt qua của Người không hệ tại ở việc tha thứ cho tội nhân, mà ở việc làm chỗi dậy những người bị đè bẹp bởi sức nặng của thập giá, những người chết cùng một cái chết vì bất công, hung bạo hoặc loại trừ. “Những người rốt hết” của thế giới chúng ta tìm cách thoát khỏi sự hủy diệt, khỏi cái chết đang đe dọa họ từ mọi phía. Sự phục sinh có được giá trị cứu độ do việc nó mở ra cho họ một niềm hy vọng: Thiên Chúa đã không để Con của Ngài trở thành nạn nhân của một cái chết như vậy, nhưng đã cho Người sống lại. Chúng ta hiểu rõ hơn rằng, sự phục sinh là một hành động công bình của Thiên Chúa: bằng cách bênh vực công lý cho Con của Ngài, Đấng đã bị giết một cách bất công, Ngài cũng biện minh cho niềm hy vọng của những người nghèo.

Do đó, lý do mầu nhiệm Vượt qua mang tính cứu rỗi trước hết là vì đau khổ và bất công đang ảnh hưởng đến nhân loại. Chính từ đau khổ và bất công mà chúng ta mới có thể khẳng định rằng, tất cả các tội nhân đều được kêu gọi đến với ơn cứu độ, bởi vì Đức Kitô đã chết để tha tội, rồi sau khi sống lại, Người mở ra con đường hòa giải và hòa bình. Do đó, trong Kitô giáo[25], ơn cứu rỗi trước hết phải được khởi đi từ đau khổ chứ không phải khởi đi từ tội lỗi. Nếu chỉ nói về sự cứu rỗi tội nhân, thì chúng ta hành động như thể sự đau khổ của các nạn nhân không quan trọng đối với Thiên Chúa, như thể Ngài có thể cứu tội nhân mà không cần bận tâm đến chuyện khôi phục công lý mà các nạn nhân đã bị tước đoạt. Nhưng Thiên Chúa không bất công! Chính trong tầm mức sự phục sinh của Đức Kitô tạo nên niềm hy vọng cho người nghèo và “những người rốt hết”, mà nó mở ra niềm hy vọng cho các tội nhân. Các tội nhân được tha thứ trong mầu nhiệm người nghèo và “những người rốt hết” được nâng dậy. Một nền thần học về sự công chính hóa (hay công lý hóa) mà bỏ qua cách thức Đức Kitô chịu chết thì cũng bỏ qua sự bất hạnh, đau khổ và cái chết thực tiễn, đang khi chúng thực sự đè nặng trên thế giới của chúng ta. Tội lỗi không chỉ là chướng ngại cho mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại, mà còn là nguyên nhân gây ra sự thống trị của cái chết, sự dọa nạt và bất công trong nhân loại và trên hành tinh này.

Do đó, việc đón nhận ơn cứu độ và sự công chính từ sự phục sinh không thể nào diễn ra khi cách xa người nghèo hay chẳng liên quan đến họ. Ngược lại, ơn cứu độ do sự phục sinh của Đức Kitô khai mở, tháp nhập chúng ta vào một đoàn dân được thiết lập theo một cách thế đặc thù: trong Người, viên đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường (Tv 118,22-23; Mc 11,10-11). Như vậy, phụng vụ Vượt qua cũng như cử hành Thánh Thể không ngừng nhắc nhở Giáo hội về sự thiết lập của chính mình.

Chúng ta có thể tham khảo chỉ dẫn liên quan các nhận xét này[26]. Trong 1Cr 15,3-5, cái chết của Đức Kitô được đề cập ở thì bất định (aoriste), trong khi sự phục sinh của Người thì ở thì hoàn thành (parfait). Nếu thì aoriste thường biểu thị một hành động chính xác, còn thì hoàn thành đề cập đến một hành động đã khởi sự trong quá khứ mà vẫn còn kéo dài hoặc tiếp tục gây ra hiệu quả. Trong việc bản văn chọn cách chia động từ thế này, chúng ta hiểu rằng thập giá đề cập đến một thời điểm chính xác trong lịch sử, còn sự phục sinh mở ra cho Đức Kitô một tình trạng mới, vẫn còn diễn ra mà không có gì ngưng lại cả. Đó là sự chứng thực cho một niềm hy vọng vượt qua đêm tối thập giá. Tuy nhiên, ở đoạn văn Mt 28,5-6 và Mc 16,6 thì hoàn toàn ngược lại: việc Đức Giêsu chịu đóng đinh được chia ở thì hoàn thành, trong khi sự phục sinh thì được loan báo bằng một động từ chia ở thì aoriste. Ở đây, sự phục sinh xuất hiện như một điều bất ngờ, một hành động của Thiên Chúa đánh dấu tiến trình lịch sử, trong khi sự chịu đóng đinh thì không phải một thực tế mà sự phục sinh sẽ kết thúc nó hoặc làm nó bị lãng quên. Chính vì chịu đóng đinh mà Đức Kitô là Đức Chúa và đã phục sinh. Do đó, chúng ta tìm thấy xác tín vững vàng rằng, vấn đề không chỉ là sự phục sinh của một người đã chết, mà còn là sự phục sinh của một người bị đóng đinh; nhất là, chúng ta khám phá ra nơi thập giá một thực tại vẫn còn tiếp diễn. Niềm hy vọng phục sinh không làm chúng ta xa rời “nơi chốn” của thập giá và thân phận của những người phải gánh vác sức nặng thập giá, mà ngược lại: niềm hy vọng giúp chúng ta chiêm niệm (những) người bị đóng đinh và đưa chúng ta dấn thân đi theo (những) người ấy. Chính nhờ mối liên hệ với những người chịu đóng đinh mà tất cả các môn đệ của Đức Kitô có thể đón nhận sự sống phục sinh.

Kết luận: niềm hy vọng cho tất cả mọi người


Chúng ta có khả năng tiếp cận tốt hơn với “các chiều kích thực sự của sự phục sinh” cùng với những người đang bị đe dọa bởi cái chết, bất công và bạo lực. Lời khẳng định này chẳng có chi nghịch lý cả: chúng ta chỉ có thể hiểu được phục sinh khởi đi từ thập giá. Dân chịu đóng đinh hóa ra cũng là dân của phục sinh: những người đầu tiên bị đóng đinh là những nhân chứng đầu tiên của sự phục sinh, thậm chí họ là những người đầu tiên được phục sinh cùng với Đức Kitô. Sự phục sinh trước hết là một niềm hy vọng cho những người cùng khổ, những người bị áp bức, những người phải gánh chịu cái chết do bạo lực và bất công. Niềm hy vọng phục sinh tương ứng với xác tín rằng, công lý của Thiên Chúa không dung tha cho việc hủy diệt “những người rốt hết”: vì lý do này, hy vọng phục sinh chứng thực cho hy vọng của người nghèo. Sự phục sinh chứng nhận rằng, công lý của Thiên Chúa can dự vào lịch sử nhân loại, một lịch sử được đánh dấu bởi sự bất công. Nó hình thành một dân tộc xung quanh viên đá bị loại bỏ nhưng đã trở nên đá tảng góc tường: ở đó, niềm hy vọng về sự phục sinh và việc ghi khắc nó vào lịch sử được cảm nếm.

Chúng tôi xin kết thúc bằng cách báo trước hai vấn nạn có thể nảy sinh khi đọc bài phân tích này. Thứ nhất, liệu chúng ta có mở ra cánh cửa cho một thứ thuyết thống khổ (dolorisme) mới, mà châm ngôn sẽ là “cần phải chịu đau khổ một cách bất công ngõ hầu được phục sinh”? Chúng tôi khẳng định điều ngược lại. Chính vì đau khổ của “những người rốt hết” là điều bất công, và không ai muốn nó cả, đến độ ngay cả Đức Kitô cũng chống lại viễn tượng này (Mc 14,32-42), cho nên Thiên Chúa đã chống lại nó bằng sự phục sinh. Chính vì sự đau khổ của người nghèo tự nó không có gì tốt hay công bằng, cho nên sự công chính của Thiên Chúa đã chống lại nó. Sự phục sinh chứng thực rằng, Thiên Chúa không thể bỏ rơi “những người rốt hết”; chúng ta có thể nhận ra sự phục sinh nơi sức mạnh của những người cùng khổ đang chỗi dậy, đến mức nó biến Thế giới Thứ tư thành “đoàn dân phục sinh”.

Thứ hai, điều gì sẽ xảy ra nếu như sự phục sinh là niềm hy vọng cho tất cả mọi người? Đối với chúng tôi, xem ra viễn tượng này không bị phủ nhận, nhưng được tái xác nhận. Sự phục sinh không thể mãi là niềm hy vọng đơn giản đối với sự tồn tại của cá nhân: điều này bị nhiều người cho là ích kỷ và trốn chạy khỏi những gian truân thử thách của lịch sử. Ngược lại, sự phục sinh của thân xác đảm bảo cho tương lai của thân xác chúng ta trong lịch sử thô bạo và bất công này. Do đó, nó là niềm hy vọng chính đáng cho tất cả mọi người, bởi vì trước hết nó là niềm hy vọng cho những người rốt hết: chính trong tầm mức những người bị đè bẹp nhất có thể hy vọng một cách chính đáng, mà niềm hy vọng này sẽ không gạt bỏ ai ra lề. Hai vấn nạn này giúp chúng ta làm sáng tỏ việc thế giới của chúng ta bị ảnh hưởng như thế nào bởi sự phục sinh của Đức Kitô. Từ những bài thuyết giáo đầu tiên của Kitô giáo, sự phục sinh của Đức Kitô đã được hiểu là sự chứng thực quyền Chúa tể của Đức Giêsu, bước vào trong vinh quang của Thiên Chúa[27]. Tuy nhiên, sự phục sinh của Người không được biểu lộ cách lẫy lừng: Đức Kitô chỉ hiện ra với một vài nhân chứng (Cv 10,40-42), những người này lãnh nhận một sứ vụ có phạm vi phổ quát (Cv 1,8), nhưng cũng chỉ đổi mới thế giới ở phần ngoài lề mà thôi. Trên thực tế, sự dữ, bạo lực, bất công, dối trá và loại trừ dường như vẫn thống trị trong một thế giới mà sự phục sinh chứng thực rằng Thiên Chúa hằng sống là Chúa tể của lịch sử. Chính với và từ “những người rốt hết”, những người cùng khổ nhất, mà chúng ta có thể sống trong một nghịch lý như vậy. Sự phục sinh thực sự đến với thế giới mà chúng ta biết, nhưng ở phía ngoài lề, từ những người rốt hết. Sự phục sinh không đổi mới thế giới “từ bên trên” nhưng là “từ bên dưới”. Nó đến với thế giới một cách khiêm hạ; chính vì đến với những người rốt hết, nên nó có thể là một lời hứa hòa giải cho tất cả mọi người.
__________
[1] Khi nói về “dân” (đám dân: peuple) Thế giới Thứ tư, “đám dân” của sự phục sinh hay dưới đây “dân chịu đóng đinh”, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “dân” theo cách loại suy. Voir A. Guggenheim, “Ils seront ses peuples.” (Ap 21,3). “Redécou­vrir la théologie du peuple de Dieu”, NRT 137 (2015), p. 221-237 ; Id., “Le Quart Monde, peuple de Dieu ? Enjeux pour l’Église et pour le monde”, NRT 140 (2018), p. 244-257.
[2] J. Wresinski, “A.T.D. Science et service et inspiration évangélique”, Igloos. Le 4e monde 87-88 (1975-1976), p. 10-73,ở đây trang. 24-26. Bài báo được đề cập đến trong hội nghị này của Joseph Wresinski, được gửi cho các sinh viên và giáo viên của Viện Nghiên cứu Thần học ở Bruxelles, vào tháng Tư năm 1975. Chúng tôi cảm ơn Jean Tonglet vì những cuộc thảo luận của chúng tôi về chủ đề của bản văn này. Hội nghị này đã được vang vọng lại bởi A. Guggenheim, “Le Quart Monde, peuple de Dieu ?” (đã trích dẫn ở số 1).
[3] Chúng tôi đã phân tích chi tiết những bài phát biểu này trong F. Odinet, Les premiers ressuscités. Les pauvres, maîtres en résurrection, Paris, Éd. Facultés Jésuites de Paris, 2021. Bài báo này sử dụng một số yếu tố thiết yếu của cuốn sách trên bằng cách tóm tắt chúng.
[4] Phương pháp của chúng tôi được mô tả trong F. Odinet, Les premiers ressuscités (đã trích dẫn ở số 3), p. 35-63.
[5] J. Wresinski, “Grande pauvreté et précarité économique et sociale”, báo cáo được trình bày trước Hội đồng Kinh tế và Xã hội vào ngày 10 và 11 tháng Hai năm 1987, Journal officiel de la République française, 28 fév. 1987.
[6] G. Gutiérrez, “À la recherche des pauvres de Jésus-Christ. Evangélisation et théologie au XVIe siècle”, dans J. Van Nieuwenhove (éd.), Jésus et la libération en Amérique latine, trad. P. Duboys de Lavigerie et J. Lochmann, Paris, Desclée, 1986, tr. 77-106, ở đây tr. 98-99.
[7] G. Le Blanc, Vies ordinaires, vies précaires, Paris, Seuil, 2007, tr. 14 và 88-89.
[8] J. Wresinski, “Les plus pauvres, révélateurs de l’indivisibilité des droits de l'homme” (1989), dans Refuser la misère. Une pensée politique née de l’action, Paris, Cerf - Quart-Monde, 2007, tr. 215-238, ở đây tr. 221.
[9] J. Sobrino, Jésus Christ libérateur. Lecture historico-théologique de Jésus de Naza­reth, trad. T. Benito, Paris, Cerf, 2014 (1991), tr. 72, 358 và 457-465.
[10] Điều này phù hợp thứ nhất của từ ngữ ‘ani’ và ‘anawim’ theo A. Gelin, Les pauvres de Yahvé, Paris, Cerf, 1953, tr. 20-21, đó là: một đám dân bị áp bức.
[11] J. Sobrino, Jésus Christ libérateur (đã trích dẫn ở số 9), p. 458.
[12] Ibid., et I. Ellacuria, “Le peuple crucifié. Essai de sotériologie historique” (1989), dans Le peuple crucifié. Le Royaume, les pauvres et l’Eglise. Écrits de San Sal­vador, 1973-1989, coll. La part Dieu, Paris - Bruxelles, Lessius, 2020, p. 59-89.
[13] J. Mqingt, L’évangile de la résurrection. Méditations spirituelles, Montrouge, Bayard, 2e éd., 2018 (2008), p. 26-27.
[14] Một sự phân biệt được báo trước đã được đề xuất bởi C. Theqbald, “Témoins du Ressuscité. Vous avez dit Résurrection ?”, dans Transmettre un Évangile de liberté, Paris, Bayard, 2007, p. 87-117. Để tìm ra các tiêu chuẩn mà chúng tôi dựa vào, xin xem F. Odinet, Les premiers ressuscités (đã trích ở số 3), p. 321-­323.
[15] www.lapierredangle.eu, consulté le 18 juillet 2022.
[16] Chúng tôi đã đơn giản hóa việc trình bày. Chúng ta có thể tìm thấy các bản giải mã chính xác hơn trong Les premiers ressuscités (đã trích ở số 3).
[17] Voir F. Odinet, “L’évangile, promesse pour les pauvres”, NRT 140 (2018), p. 258-275, ici p. 260-266.
[18] x. J. Moltmann, Théologie de l’espérance. Études sur les fondements et les conséquences d’une eschatologie chrétienne, trad. F. et J.-P. Thévenaz, Paris, Cerf - Mame, 1970 (1964), p. 205-246.
[19] C. Theobald, Transmettre un Évangile de liberté (đã trích ở số 14), tr. 155-156.
[20] Tất nhiên chúng tôi đang nói về một sự bất khả dĩ theo cách chủ quan: chúng tôi không hề có ý phủ nhận phẩm giá khách quan của những người khốn cùng trong nhân loại và dưới đôi mắt của Thiên Chúa.
[21] A. Wenin, Naissance d’un peuple, gloire de Dieu. Exode 14-15, Namur, Lessius, 2018, cụ thể tr. 64.
[22] x. Sách Lễ Rôma, Kinh Tạ ơn IV.
[23] Thomas d'Aquin, ST Ia, q. 45, a. 3, resp.
[24] G. le Blanc, Vies ordinaires, vies précaires (đã trích ở số 7), p. 59.
[25] J.-B. Metz, Memoria passionis. Un souvenir provocant dans une société plura­liste, trad. J.-P. Bagot, Paris, Cerf, 2006 (2009), tr. 29-37 và 58-59.
[26] J.-F. Baudoz, “Prendre sa croix”. Jésus et ses disciples dans l’évangile de Marc, Paris, Cerf, 2009, p. 116-117.
[27] F.-X. Durrwell, La résurrection de Jésus, mystère de salut, Le Puy, Xavier Mappus, 4e éd., 1954, p. 24-27.
Bài đăng cũ hơn
Bài đăng mới hơn
//