Thứ Năm, 7 tháng 7, 2022

CUỘC SỐNG THƯỜNG NHẬT CỦA MỘT NỮ… LINH MỤC

Thời sự Thần học - Số 39, tháng 09/2004, tr. 113-120

Ngay tại chiếc nôi của Anh giáo, việc phong chức linh mục cho nữ giới cũng gây ra nhiều tranh cãi gay gắt : không trung thành với ước muốn của Đức Kitô hay vì nhu cầu của thời đại ? Djénane Kareh Tager, phóng viên Tạp chí Le Monde des Religions (Pháp) đã làm một phóng sự thú vị về cuộc sống thường nhật của nữ linh mục Faith Claringbull, vừa thi hành nhiệm vụ tư tế, vừa là mẹ của hai cô con gái nhỏ. Chúng ta hãy theo chân Tager đến giáo phận Worcester, nơi nữ linh mục này đang sống, để xem sinh hoạt của bà ra sao… Bùi Gia Minh chuyển ngữ từ Le Monde des Religions, 7-8/2004

_Djénane Kareh Tager_


Bốn mươi tám tiếng đồng hồ bên cạnh một nữ linh mục. Sáng, trưa và tối. Suốt những buổi họp và dâng thánh lễ, giờ cho con cái ăn uống và buổi tối xem ti vi cùng với chồng… Vừa nghe tôi đề nghị làm phóng sự, nữ linh mục Faith Claringbull đồng ý ngay tuy bà có hơi chút ngượng ngùng.

Qua bà, dần dần tôi biết được thêm đôi điều, ngoài những gì mà ông Jean Mercier đã viết vào năm 1994 trong cuốn Những phụ nữ vì Vương quốc Thiên Chúa (NXB Albin Michel), một cuốn sách tập hợp nhiều nhân chứng về những người tiên phong này : những phụ nữ đầu tiên được phong chức linh mục trong Giáo hội Anh giáo. Tôi cũng có một tấm hình cũ, chụp cách đây đúng 10 năm ngay mặt tiền nhà thờ chính toà Saint-Paul ở Luân Đôn : một phụ nữ trẻ vóc người mảnh khảnh, khoác áo xu-tan và mang “xây xích chó” (một tên gọi khác của cổ cồn trắng), mặt mày rạng rỡ, trong tay ẵm đứa bé mới sinh bốn tháng. Đó là ngày phong chức của bà Faith Claringbull.

Bà Faith Claringbull cho tôi biết, công việc hiện nay của bà là “Phụ tá Giám đốc tuyển sinh của giáo phận”. Nhiệm vụ của bà là sàng lọc các linh mục tương lai trước khi gởi họ đến trường thần học chuẩn bị cho việc phong chức sau này.

Thứ tư, 11 giờ. Nơi chúng tôi đến là Trường Thần học Đại kết Birmingham, thuộc West Midland ở Anh Quốc. Đây là vườn ươm dưỡng nuôi các linh mục tương lai, hiện có 140 nam nữ sinh viên đang theo học. Ngôi trường tiến rất xa trong việc đại kết : các sinh viên thuộc Anh giáo lẫn Tin Lành (Giám lý (Méthodistes) và Cải cách) cùng chung giáo trình, chung giảng viên. Cuộc họp diễn ra ở ngôi trường này, có sự hiện diện của bà Faith Claringbull và đại diện của ban Giám đốc tuyển sinh thuộc nhiều giáo phận khác nhau đến tham dự, họ đặt ra cho ban giám hiệu trường nhiều câu hỏi hóc búa. Vấn đề họ đặt ra ngày hôm đó : quá trình đào tạo có phù hợp hay phải xác định lại một vài giảng khoá ? Họ không đả động gì đến chuyện thực hiện đại kết, cũng không nói đến tính hỗn hợp. Vấn đề là làm sao đưa vào thêm một vài thay đổi để giúp cho người thi hành tác vụ linh mục sau này thích ứng với nông thôn hay thành thị. Chẳng có gì cụ thể cả.

15 giờ. Đã đến giờ trở về, chúng tôi đến xe của bà. Chồng bà, ông Keith Claringbull – cũng là một linh mục – hôm đó đến phiên ông đón hai cô con gái nhỏ là Rachel (10 tuổi) và Anna (8 tuổi) ở trường. Dù vậy, bà vẫn muốn cùng ăn tối với gia đình. Con đường chạy dài đến Droiwich, một thị trấn gần Worcester, nơi bà đang thi hành nhiệm vụ của mình. Đó là nghề của Faith Claringbull, như bà nói. “Mỗi giáo phận thường xuyên nhận được thư của những ứng sinh xin làm linh mục. Công việc của tôi là tiếp đón những ơn gọi này và đồng hành với họ trong suốt một năm rưỡi hoặc hai năm, sau thời gian đó là một gánh nặng chất lên người tôi : tôi phải phân định xem những ứng sinh này có thực sự có ơn gọi không, họ có thực sự “được kêu gọi” hay không. Dĩ nhiên là họ quen thuộc với Giáo hội chúng tôi và cả việc sống đạo. Họ có đức tin, nhưng liệu họ có đủ khả năng để truyền chức cho họ không ? Đời sống tâm linh của họ có luôn thể hiện qua cuộc sống thường nhật không ? Họ có đủ chín chắn để đảm nhận nhiệm vụ tương lai của mình, và liệu họ có chịu đựng được những khó khăn luôn bám lấy họ không ? Họ có xứng đáng lãnh đạo cộng đoàn và phát triển tinh thần tập thể không ? Nếu trả lời “có” cho tất cả những câu hỏi này, tôi sẽ yêu cầu đức giám mục giới thiệu ứng viên với Hội đồng tuyển chọn quốc gia, trực thuộc Hội đồng giám mục. Hội đồng sẽ quyết định sau ba ngày tuyển chọn. Những người trúng tuyển sẽ đến trường thần học để học trong một hoặc hai năm, trước khi thực tập ở giáo xứ.” Còn những người bị từ chối thì sao ? “Họ sẽ phải thất vọng và chờ đợi, đó là chuyện bình thường. Tôi giúp họ vượt qua nỗi thất vọng và cay đắng, những điều này chính chúng tôi, những phụ nữ, đã từng nếm trải khi chúng tôi cố gắng vượt qua cửa ải của chức linh mục nhưng những cánh cửa ấy vẫn cứ đóng im ỉm trước mặt chúng tôi.”

16 giờ 30. Một người đàn ông râu tóc bờm xờm chạy xe đạp chở theo một cô bé nhỏ. Đó là ông Keith, chồng bà Faith. Ông được phong chức linh mục cách đây ba năm, hiện đang phục vụ tại một giáo xứ. “Mỗi Chúa nhật, anh ấy phải dâng từ hai đến ba thánh lễ, bà Faith thở dài. Phần tôi, tôi chỉ làm lễ ở giáo xứ mỗi tháng một Chúa nhật mà thôi. Chúa nhật, tôi đưa các con gái mình đi lễ của anh ấy, nhưng bọn trẻ chọc ghẹo, cả hai đứa bắt đầu phản đối. Tôi không muốn con cái mình phải đau khổ vì cả cha lẫn mẹ đều làm linh mục !” Hiện giờ, cả Rahel và Anna đều biết đến những bận tâm của các bạn đồng trang lứa : làm sao thuyết phục ba mẹ sắm cho một chiếc điện thoại di động ?

19 giờ. Sau bữa tối, bà Faith vội vã. Tối nay bà tổ chức một buổi họp ở nhà thờ Saint-Nicolas gần đó dành riêng cho việc tổng kết 10 năm ngày giới nữ được phong chức linh mục. Bà thay chiếc sơ mi đỏ bằng chiếc áo xanh, xoả lọn tóc xoăn đến tận cổ và cầm một chiếc cổ cồn. Bà chờ cho xe ra khỏi khu phố mình ở rồi luồn cổ cồn trắng vào cổ áo : “Tôi đã lẫn lộn giữa đời tư với đời sống chức nghiệp rồi, tôi đem về nhà rất nhiều hồ sơ. Nới rộng áo chùng cũng vô ích.” Trong ngôi nhà thờ nơi diễn ra cuộc họp, một công trình kiến trúc kiểu Victoria, phần lớn người dự họp đều là nam giới. Một người tham dự nói với giọng đầy thất vọng : “Đã hơn mười năm nhưng chẳng có gì thay đổi cả. Giáo hội vẫn y nguyên như vậy.”


Buổi tối, ngồi bên nhau ông bà Claringbull trở lại vấn đề : “Đúng vậy, các tín hữu luôn thất vọng. Họ kỳ vọng rất nhiều, có lẽ quá nhiều, vào những nữ linh mục. Nhưng họ chẳng thấy tương lai thay đổi gì cả. Những nữ linh mục chẳng “làm lại” Giáo hội, họ chỉ bắt chước đàn ông.” Lỗi của nam giới ư ? “Lỗi của nữ giới”, bà Faith khẳng định. “Chúng tôi thiếu tự tin và lưỡng lự không chịu ứng cử vào chức vụ cao trong hàng giáo sĩ và ngại ngùng lãnh trách nhiệm. Đừng nói gì đến chức giám mục – chúng tôi vẫn chưa có nữ giám mục – nhưng chỉ là vị trí thứ yếu trong tổ chức Giáo hội Anh giáo.” Ngay chính bà cũng do dự không dám nhận chức Giám đốc tuyển sinh giáo phận (hiện giờ bà vẫn chỉ là người phụ tá) của giáo phận Birmingham rộng lớn. “Tôi cần được nâng đỡ”, bà lặp đi lặp lại cả chục lần trong ngày. Ông Keith nhìn bà. Còn chức giám mục thì sao ? “Tôi không nhận chức vụ ấy đâu, bà nói thực lòng. Nhưng tôi biết ít nhất có hai người phụ nữ làm giám mục rất tuyệt.”

Thứ năm, 6 giờ sáng. Ngôi nhà còn chìm đắm trong giấc ngủ. Trên tấm thảm lớn ở phòng khách, dưới chân lò sưởi một ngọn nến lớn đang cháy, bà Faith luyện yoga như mọi ngày. Và cũng như mọi buổi sáng, lúc 6 giờ 45, ông Keith đến gặp bà. Bắt đầu một nghi thức quen thuộc, hai ông bà ngồi cạnh nhau tay cầm cuốn Thánh kinh. Cả hai im lặng trong một khắc đồng hồ, họ cầu nguyện. Cô bé Anna xuất hiện. Không nói một lời, cô chạy lại rồi ngồi vào lòng mẹ. Thật xúc động, trong ánh sáng mờ nhạt của buổi bình minh, đôi vợ chồng linh mục cầu nguyện say sưa. Có tiếng chuông báo giờ ăn sáng. Mọi người dùng bữa rồi ai vào việc nấy.

9 giờ 30. Trong nguyện đường tại toà giám mục Worcester ở Old Place. Vị linh mục đang thánh hiến bánh rượu trên bàn thờ chính là Faith Claringbull. Bà khoác áo xu-tan, đeo dây các phép và đang đọc lời truyền phép : “Hãy cầm lấy mà ăn, đây là thịt Thầy; hãy cầm lấy mà uống, đây là máu Thầy.”

Sau thánh lễ, chúng tôi vào văn phòng của bà, vẫn còn nhiều hồ sơ đang đợi bà giải quyết. Những ứng viên nữ xin làm linh mục không bao giờ thiếu. Chẳng bao lâu nữa, số phụ nữ xin làm linh mục ngang bằng nam giới. Cách đây 10 năm, việc phong chức linh mục cho những phụ nữ đầu tiên trong Giáo hội Anh giáo đã gây nhiều xáo trộn dữ dội; thời đó có khoảng 400 linh mục tỏ thái độ giận dữ, nhiều người quay trở về với Giáo hội Công giáo. “Chừng năm mươi người đã trở về khi việc phong chức cho chúng tôi được chấp nhận và sự hiện diện của chúng tôi không gây khó chịu nữa”, bà Faith khẳng định. Bà vẫn nhớ người ta nhìn mình bằng ánh mắt kinh ngạc, thậm chí có người còn giận dữ cách đây 8 đến 10 năm, nhất là khi thấy bà mang bụng bầu. “Họ nhìn vào bụng tôi rồi nhìn vào chiếc cổ cồn trắng. Giáo hội thật buồn cười khi phong chức linh mục cho nữ giới. Chẳng phải ngày nay họ lại trách cứ những người đồng tính phục vụ Giáo hội đó sao ?” Dù không thích nói về chuyện này nhưng bà vẫn thêm “nếu người ta loại trừ tất cả các linh mục đồng tính thì nhiều giáo phận, như Luân Đôn chẳng hạn, sẽ trở nên hoang vắng”. Phải chăng việc phong chức linh mục cho nữ giới là một cách điền vào chỗ trống cho số ơn gọi của nam giới giảm sút quá nhiều ? Ông Keith hơi ngạc nhiên với câu hỏi này : “Dĩ nhiên là không ! Mục đích là giúp toàn thể dân Chúa cử hành thánh lễ.”

17 giờ. Trong khi các con gái tập thể dục, bà Faith cho thiệp mời vào phong bì. Sắp tới bà tổ chức một cuộc họp bàn về chức linh mục của nữ giới trong giáo phận Worcester. Buổi tối, bà quyết định kết thúc hồ sơ của những ứng viên xin gia nhập hàng ngũ linh mục ở Birmingham. “Sau mười năm, tôi càng tự tin vào mình hơn. Tôi nhớ trong thánh lễ đầu tiên của mình, khoảng một nửa số người tham dự từ chối rước lễ. Tôi cảm thấy mình như một bà mẹ không thể cho những đứa con đang đói của mình ăn uống. Dần dà, nhờ nỗ lực trong trong nhiều việc, các nữ linh mục rồi cũng được chấp nhận. Nhưng tôi cần có thời gian, sau khi mình được phong chức, để tự thuyết phục mình cũng có quyền được làm linh mục và đặt tay. Thời đó, đức giám mục của chúng tôi từ chối phong chức cho nữ giới : thế là đức giám mục của giáo phận láng giềng được uỷ nhiệm để cử hành nghi lễ tấn phong. Thú thật với anh, hồi đầu những linh mục nữ không thể làm việc với một số vị giám mục.” Rồi bà xúc động nói tiếp : “Tôi đặt tay cho Keith khi anh ấy được phong chức…”

Buổi tối, trước màn ảnh nhỏ, Faith Claringbull nói với chúng tôi về hành trình đức tin của mình: “Tôi không cho mình là một “nữ tu”. Vốn là con gái của một linh mục, chính tôi cũng đấu tranh rất lâu chống lại tiếng gọi thúc giục mình. Tôi từng dấn thân vào hoạt động truyền bá Tin mừng đã làm tôi nhanh chóng thất vọng trước khi tìm thấy con đường của mình ở Taizé. Chính một thầy già đã thúc giục tôi quyết định bước vào chức phó tế. Không phải vì mình là nữ giới mà tôi dấn thân vào đấu tranh cho phụ nữ làm linh mục đâu. Tôi tin một cách chân thành rằng mình được tiền định để lãnh nhận ân huệ này. Còn châm ngôn của tôi ư, chỉ một câu thôi : “Giúp những người khác trở thành con cái Thiên Chúa.”

* Đôi nét về giáo phận Worcester

Theo kết quả điều tra dân số mới nhất (2001), 72% trong số 60 triệu người Anh nhận mình là Kitô hữu, phần lớn thuộc Giáo hội Anh giáo. Có khoảng 1,2 triệu tính hữu Anh giáo tham dự thánh lễ Chúa nhật hằng tuần. Giáo hội Anh giáo ở Anh gồm 44 giáo phận. Giáo phận Worcester do thánh Theodore ở Canterbury thành lập năm 679, gồm 190 giáo xứ với 281 thánh đường (trong các trường học, nhà hưu dưỡng, bệnh viện…). Giới linh mục của giáo phận này “âm thịnh” nhất nước Anh. Năm 2001, có 3.290 người được rửa tội (trung bình ¼ số trẻ em được rửa tội trước một tuổi) và 1.300 đám cưới ở nhà thờ.

* Những con số biết nói

Ngày 11 tháng 11 năm 1992, công nghị Giáo hội Anh giáo cho phép phong chức linh mục cho phụ nữ. Những phụ nữ đầu tiên được phong chức vào mùa xuân năm 1994. Mười năm sau, Giáo hội Anh có hơn hai ngàn nữ linh mục, chiếm 1/5 hàng tư tế. Tỉ lệ này không ngừng gia tăng : gần một nửa số ứng sinh xin làm linh mục (khoảng 500-600 người mỗi năm) ngày nay là nữ giới. 21% nữ linh mục trực tiếp coi sóc giáo xứ, 31% phụ tá cho một nam linh mục tại giáo xứ, số còn lại phân tán trong các chức vụ khác (tuyên uý, giảng dạy, quản trị…). Giáo hội Anh giáo cho phép các giáo xứ có quyền từ chối nữ linh mục. Hiện nay có khoảng 6,1% số giáo xứ không nhận linh mục nữ.